Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 42
Chủ
giảng: Lăo pháp sư Thích Tịnh Không
Chuyển
ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Ḥa
Giảo
duyệt: Huệ Trang và Đức Phong
Tập 83
“Hựu Như Thị giả, chỉ
sở văn chi pháp thể, tức Thật Tướng chi
Lư Thể. Thật Tướng diệu lư, cổ kim bất
biến, cố viết Như. Như Lư nhi thuyết, cố
viết Thị” (Lại nữa, Như Thị chỉ pháp
thể của điều được nghe, tức là Lư Thể
của Thật Tướng. Diệu lư Thật Tướng
xưa nay chẳng thay đổi, nên gọi là Như. Đúng
như Lư mà nói nên gọi là Thị). Chúng ta xem đoạn này
trước. Vừa mới mở kinh ra [th́ câu đầu
tiên] là “như thị ngă văn”.
Hai chữ Như Thị là Tín Thành Tựu, trong phần trước
chúng ta đă đọc về Tín Thành Tựu. Những ư nghĩa
được bao hàm trong hai chữ Như Thị nói về
pháp thể của cái được nghe (sở văn), cũng
có nghĩa là nói những đạo lư do đức Phật
đă nói trong khi giảng kinh và giáo học đă căn cứ
vào đâu? Nhất định phải biết điều
này. Ngài căn cứ trên những ǵ, Ngài nói những điều
ǵ đều được hoàn toàn bao quát trong hai chữ
này. Pháp thể là [bản thể của] pháp do đức Phật
nói và pháp chúng ta được nghe. Lư Thể là ǵ? Là Lư Thể
của Thật Tướng. Nói theo cách bây giờ, Thật
Tướng là chân tướng. Nói cách khác, những điều
đức Phật đă giảng, những điều chúng
ta nghe từ nơi đức Phật đều giảng
về chân tướng của vũ trụ và nhân sinh.
Lúc
tôi mới học Phật, chẳng biết Phật pháp rốt
ráo là ǵ, nghe người trong xă hội nói sao th́ cũng hùa
theo thế ấy. Người ta nói như thế nào? Người
ta bảo Phật giáo là tôn giáo, là mê tín, chúng tôi cũng thật
sự tin tưởng Phật giáo là tôn giáo, mê tín. V́ thế,
trong một thời gian rất dài, chúng tôi chẳng có ư muốn
tiếp xúc Phật giáo. Du sơn ngoạn thủy chẳng
thể nào không thấy chùa miếu, vào trong ấy ngắm
nghía, cũng chẳng có ai giới thiệu [Phật giáo] với
chúng tôi. Thấy trong chùa thờ rất nhiều tượng
thần; v́ thế, đă tạo
cho chúng tôi một quan niệm sai lạc: Phật giáo là tôn
giáo, là đa thần giáo, là phiếm thần giáo! Trong tôn
giáo học, đa thần giáo và phiếm thần giáo là tôn
giáo cấp thấp; tôn giáo cao cấp chỉ có một vị
chân thần. Điều ấy tạo thành sai lầm nghiêm
trọng đối với những kẻ b́nh phàm chẳng
thông hiểu Phật pháp. Nếu cả đời này, tôi chẳng
gặp giáo sư Phương Đông Mỹ, sẽ chẳng
thể tiến nhập Phật môn. Tôi theo học Triết
Học với thầy Phương, thầy chỉ bảo
tôi, giảng cho tôi nghe một bộ Triết Học Khái Yếu,
phần cuối cùng là triết học trong kinh Phật. Thầy
bảo tôi: “Thích Ca Mâu Ni Phật
là một triết gia vĩ đại nhất thế giới,
kinh Phật là đỉnh cao nhất trong triết học toàn
thế giới, học Phật là hưởng thụ cao nhất
trong cuộc đời”. Chúng tôi học
Phật năm mươi chín năm, phát hiện triết học
trong kinh Phật không chỉ là triết học, mà c̣n là khoa
học, và cũng là đỉnh cao nhất trong khoa học
toàn thế giới. Học Phật không chỉ là hưởng
thụ tối cao, mà c̣n là phước báo tối cao trong cuộc
đời! Người có phước mới có thể tiếp
xúc [Phật pháp], chẳng được tiếp xúc là thiếu
phước! [Phật giáo] chẳng phải là tôn giáo. Tôi mới
hiểu rơ ràng, minh bạch, tiếp nhận sự giáo dục
của Phật Đà là phước báo lớn bậc nhất
trong đời người. Đức Phật giảng về
chân tướng của vũ trụ và nhân sinh, Thật Tướng
của các pháp.
“Thật Tướng diệu lư,
cổ kim bất biến, cố viết Như” (diệu
lư Thật Tướng xưa nay chẳng thay đổi nên
gọi là Như). Đấy là một hạng mục nghiên
cứu chủ yếu trong triết học và khoa học, măi
cho đến hiện tại, có thể nói là khoa học hiện
đại và kinh Phật đă trở nên rất gần
gũi. Khoa học Lượng Tử nghiên cứu về thế
giới vi mô.
Khoa học phát triển theo hai phương hướng:
- Một là thế
giới vĩ mô (macrocosm), tức vũ trụ. Những
điều được giảng trong phẩm Thế Giới
Hoa Tạng và Thế Giới Thành Tựu của kinh Hoa
Nghiêm chính là thế giới vĩ mô.
- [Hai là] thế
giới vi mô (microcosm), chính là ba tế tướng của A
Lại Da như đức Phật đă giảng, nói đến
khởi nguyên của vũ trụ.
Trong hiện
thời, Lượng Tử Lực học rất tuyệt
vời, cũng nói đến A Lại Da khiến cho chúng tôi
thật sự bội phục năm vóc sát đất. Nói tới
chân tướng vũ trụ th́ khởi nguyên của vật
chất cũng là khởi nguyên của vũ trụ, vũ
trụ do vật chất hợp thành, vật chất do đâu
mà có? Các nhà Lượng Tử Lực học bảo chúng ta:
“Vật chất là từ Không sanh ra Có”. Trong Không v́ sao có thể
sanh ra Có? Họ không thể nói được, chỉ phát
hiện những thứ từ trong Không sanh ra Có; lại c̣n
xuất hiện với tốc độ vô cùng nhanh trong thời
gian tột bực ngắn ngủi, tạm bợ, gần như
vừa hiện ra bèn lập tức tiêu diệt, hiện
tượng thứ hai lại xuất hiện. Do vậy, rốt
cuộc vật chất là ǵ? Vật chất là một thứ
hiện tượng tích lũy liên tục của ư niệm
(trong Lượng Tử Lực Học nói tới “thông tin”, đó cũng là ư niệm);
nói nghiêm ngặt, vật chất chẳng tồn tại! Trong
giáo pháp Đại Thừa, đức Phật thường
bảo: “Phàm những ǵ có h́nh tướng
đều là hư vọng”, tướng ấy là hiện
tượng vật chất, mà cũng bao gồm cả hiện
tượng tinh thần, đều là hư vọng. Kinh Kim
Cang dạy: “Hết thảy các
pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt, bóng”, có hay
không? Chẳng thể nói chúng không có, mà cũng chẳng thể
nói là chúng thật sự có. V́ sao? Hiện tượng ấy
ở ngay trước mặt, “đương
thể tức không, liễu bất khả đắc”
(bản thể chính là Không, trọn chẳng thể được),
chân tướng đấy! Hiện tượng này rất
khó hiểu, chẳng ngờ hiện thời Lượng Tử
học đă phát hiện! Các nhà Lượng Tử Lực Học
bảo chúng ta: Trong vũ trụ chỉ có ba thứ, trừ
ba thứ ấy ra, quả thật thứ ǵ cũng đều
không có. Ba thứ do họ phát hiện chính là ba tế tướng
của A Lại Da; họ nói trong vũ trụ có năng
lượng, vật chất, và thông tin, thông tin là hiện
tượng tinh thần. Đây là một môn khoa học mới
nổi lên[1], tôi tin tưởng ba năm nữa,
tối đa là năm năm, mọi người trên cả
thế giới sẽ thừa nhận, khẳng định
học thuyết này, đây là một phát hiện chưa lâu!
Họ nói tới
năng lượng, trên thực tế [năng lượng]
là nghiệp tướng của A Lại Da trong Phật pháp.
Nghiệp tướng là hiện tượng dao động
hết sức vi tế, chúng ta không có cách nào cảm nhận
hiện tượng dao động ấy, [v́ nó] vô cùng vi tế.
Theo kinh Phật, ai mới có thể phát hiện, có thể
thấy hiện tượng ấy? Kinh dạy chúng ta: Bát Địa
Bồ Tát; quư vị nghĩ xem, công phu định lực ấy
sâu lắm. Nếu chúng ta suy tính, dựa theo kinh Hoa Nghiêm để
nói, luận theo thứ tự công phu định lực th́
trong các địa vị thuộc hàng Thập Tín Bồ Tát,
địa vị Sơ Tín mới tu thành tiểu định.
Những đẳng cấp trong Phật pháp là nói theo tŕnh độ
công phu định lực sâu hay cạn, chứ không phải
nói về điều ǵ khác, quư vị không có Định sẽ
chẳng được. Nếu muốn đắc Định,
quư vị nhất định phải tŕ giới, “do Giới đắc Định,
do Định khai Huệ”. Khai Huệ là ǵ? Trong Định,
quư vị sẽ thấy. Địa vị Thập Tín là mười
đẳng cấp đầu tiên, công phu định lực
từ [cấp bậc] thứ nhất, thứ nh́ cho đến
thứ mười. Trong kinh, đức Phật thường
nói Tứ Thiền Bát Định, đó là tám cấp bậc.
Tám cấp bậc ấy là Thiền Định thế gian,
chưa thoát khỏi lục đạo nên gọi là Thiền
Định thế gian. Đến môn Định thứ
chín mới gọi là xuất thế gian, [địa vị]
thứ chín, thứ mười trong [Thập Tín là xuất
thế gian]; đó là các địa vị thuộc Thập
Tín như trong kinh Hoa Nghiêm đă nói, nhưng địa vị
thứ mười vẫn chưa ra khỏi mười pháp
giới. Đến tầng bậc mười một (Sơ
Trụ) mới vượt thoát mười pháp giới. Sau
khi vượt thoát mười pháp giới, c̣n có bốn
mươi mốt đẳng cấp. Quư vị thấy [các
đẳng cấp ấy là] Thập Trụ, Thập Hạnh,
Thập Hồi Hướng, Thập Địa; Bát Địa
trong Thập Địa, tức Bát Địa Bồ Tát mới
thấy được A Lại Da, quư vị nghĩ xem: Công
phu định lực ấy sâu lắm! A La Hán và hàng Bồ
Tát thông thường vẫn chưa thấy được,
từ Bát Địa trở lên mới thấy. Nói cách khác,
có thể thấy được nguyên khởi và đầu
mối của vũ trụ là Bát Địa, Cửu Địa,
Thập Địa, Thập Nhất Địa (Đẳng
Giác), và Diệu Giác, năm địa vị tối cao. Công
phu định lực ấy từ sơ cấp măi cho đến
địa vị tối cao, thành Phật, là năm mươi
hai đẳng cấp, năm đẳng cấp cao nhất
mới có thể thấy [A Lại Da], những cấp thấp
hơn đều chẳng thấy. Công phu định lực
vi tế rất sâu như vậy, cho nên họ có thể cảm
nhận những dao dộng cực kỳ vi tế.
V́ thế, diệu
lư Thật Tướng do đức Phật đă giảng
là do chính Ngài đích thân thấy. Các nhà khoa học dùng Toán Học,
Toán Học là mẹ của khoa học, họ t́m được
căn cứ lư luận từ Toán Học, sau đấy lại
dùng phương pháp khoa học để chứng minh, đắc
lực nhờ dùng các dụng cụ khoa học để
quan sát, chứng minh, có thể phát hiện A Lại Da, chẳng
đơn giản! Trong kinh Đại Thừa, đức Phật
đă từng giảng chuyện này, thức thứ sáu, tức
Ư Thức, nay chúng ta gọi nó là “tư tưởng”. Thức
thứ sáu tức Ư Thức là phân biệt; năng lực của
tư tưởng quá lớn, đối với bên ngoài, nó
có thể tưởng toàn thể vũ trụ, tức là thế
giới vĩ mô, đối với bên trong, nó có thể
duyên tới A Lại Da, đấy là nói về thế giới
vi mô; dùng thức thứ sáu tức Ư Thức, nó có tác dụng
lớn như thế. Sử dụng thức thứ sáu (Ư
Thức), có thể duyên tới A Lại Da, quư vị hăy nghĩ
xem, cho đến hiện thời khoa học mới phát hiện
[A Lại Da], nhưng trong kinh Phật đă nói tới [chuyện
ấy], giống như đă tiên đoán vậy! Trước
khi khoa học phát triển, hoàn toàn cậy vào công phu định
lực. Công phu định lực chưa đạt tới
tŕnh độ Bát Địa, quư vị sẽ chẳng thấy.
Trong ba tế tướng, nghiệp tướng là năng
lượng, cảnh giới tướng là vật chất,
chuyển tướng là thông tin. Kinh Hoa Nghiêm bảo chúng ta:
Toàn thể vũ trụ là “duy
tâm sở hiện, duy thức sở biến”, năng hiện,
năng sanh là tự tánh. “Tự
tánh thanh tịnh viên minh thể” như trong sách Hoàn Nguyên
Quán đă nói chính là Lư Thể của Thật Tướng đang
được nói tới ở đây, nó là “tự tánh thanh
tịnh viên minh thể”. Thể ấy chẳng phải là vật
chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, nhưng nó
có thể sanh ra vật chất và tinh thần, nó có thể
sanh, có thể hiện. Sau khi những hiện tượng ấy
được hiện ra, chúng bèn thiên biến vạn hóa,
biến thành y báo và chánh báo trang nghiêm trong mười pháp giới,
biến như thế nào? Ư niệm biến, thức biến,
“thức” là A Lại Da, Mạt
Na, và Ư Thức, nó biến hóa, nó có thể biến. Nhưng
nếu không có năng hiện năng sanh, nó sẽ chẳng
thể biến; v́ vậy, nhất định phải có sở
hiện sở sanh th́ nó mới có thể biến. Sự biến
hóa ấy là thiên biến vạn hóa, điều này được
sách Hoàn Nguyên Quán diễn tả là “xuất sanh vô tận”. Năng lượng chính là
loại thứ nhất trong ba thứ “châu biến” (trọn khắp) [được nhắc
tới] trong Hoàn Nguyên Quán, “châu
biến pháp giới” (trọn khắp pháp giới), năng
lượng của ư niệm, năng lượng của
hiện tượng vật chất [đều trọn khắp
pháp giới].
Vật chất
chẳng chết cứng, bất luận vật chất nào
cũng do các hạt cơ bản [hợp thành], nói “tế bào”
hăy c̣n quá lớn, phân tử của tế bào [cũng hăy c̣n
quá lớn], [phân tử do các] hạt cơ bản [hợp
thành]. Hiện thời, các nhà vật lư học Lượng
Tử nói vật chất cơ bản vẫn c̣n có thể
chia nhỏ, lại tách ra thành lượng tử (quantum),
lượng tử gọi là tiểu quang tử (photon), chẳng
c̣n ǵ nhỏ hơn thứ này; nhưng trong đó có hiện
tượng vật chất mà quư vị có thể thấy
được, [nó cũng] có hiện tượng tinh thần,
“hiện tượng tinh thần” là nói về Thọ,
Tưởng, Hành, Thức, nó có cảm thụ. Chúng ta đối
xử với nó bằng thiện ư, chúng sẽ phản ứng
tốt đẹp; đối đăi bằng ác niệm, nó
sẽ phản ứng chẳng tốt đẹp. T́nh h́nh này
giống như tiến sĩ Giang Bổn Thắng đă làm
thí nghiệm đối với nước. V́ vậy, chúng
ta mới biết những điều kinh Phật đă nói,
trước kia chúng ta chẳng có cách nào tưởng tượng
được, cũng rất khó tin tưởng. Quư vị
nói núi, sông, đại địa hiểu được ư
nghĩ của con người ư? Hiểu chứ! Hoa, cỏ,
cây cối hiểu được ư nghĩ của con người
th́ chúng ta c̣n có thể tưởng tượng được,
v́ sao? Chúng là sinh vật, chứ núi, sông, đại địa
là khoáng vật mà cũng hiểu được ư nghĩ của
con người ư? Thật sự hiểu! Nước là
khoáng vật. Ông Giang Bổn Thắng làm thí nghiệm mười
hai năm, đă nhiều lần báo cáo tại Liên Hiệp
Quốc, đúng vậy, chẳng giả chút nào! Tôi sang Nhật
Bản, đặc biệt đến thăm pḥng thí nghiệm
của ông ta, tôi đến đấy đôi ba lần, chẳng
giả tí nào! Chứng tỏ điều ǵ? Chứng tỏ
vật chất, chẳng phải là sinh vật, nay chúng ta gọi
chúng là “vô sanh”, [nghĩa là] chẳng phải là sinh vật, chúng
có thể thấy, nghe, hiểu ư nghĩa của con người.
Chuyện này nói rơ điều ǵ? Phật pháp nói toàn thể
vũ trụ là một thể hữu cơ sống động,
chẳng phải là chết cứng. Do vậy, con người
sống trên địa cầu, địa cầu là [một
vật thể] sống, quư vị chớ nên có lỗi đối
với nó! Nay chúng ta ở trên địa cầu, mặc sức
phá hoại hoàn cảnh tự nhiên, địa cầu tức
giận, nổi nóng, nay chúng ta nói là “thiên tai xảy ra”. Thật
ra, chẳng phải là thiên tai, mà là địa cầu nổi
giận, chúng ta có lỗi với nó, mặc sức phá hoại
nó, cho nên nó báo thù: Động đất, lũ lụt, núi
lửa bùng nổ, sóng thần, nhiệt độ địa
cầu tăng lên, [địa cầu đang] nổi giận
đấy!
Chúng ta hiểu
đạo lư này, tức là hiểu rơ diệu lư Thật
Tướng, có thể hóa giải những tai nạn ấy
hay không? Có thể! Những nhà tôn giáo thông thường dùng phương
pháp ǵ? Họ dùng cách cầu đảo. Những pháp hội
kinh sám Phật sự trong Phật môn chúng ta, kể cả
Tam Thời Hệ Niệm như chúng tôi đề xướng,
đều thuộc loại cầu đảo. Cầu đảo
bằng cách nào? Thiện niệm của tập thể, rất
nhiều người nhóm lại, những ư niệm do chúng
ta phát khởi đều là thuần thiện. Thiện niệm
có thể giảm nhẹ tai nạn, có thể khiến cho [tai
nạn] chậm xảy ra, chứ không thể tiêu diệt;
bởi lẽ, đó là trị đằng ngọn, chẳng
trị tận gốc. Cách vài ngày quư vị chẳng cầu
đảo, tai nạn lại hiện tiền. Trị tận
gốc bằng phương pháp nào? Giáo dục trị tận
gốc. Trong giáo dục, kinh điển là sách giáo khoa, [kinh Phật]
là sách giáo khoa của Thích Ca Mâu Ni Phật, dạy bảo
chúng ta, chúng ta hiểu rơ: Khởi tâm động niệm nhất
định phải tương ứng với Tánh Đức.
Nói theo cách bây giờ, Tánh Đức tương ứng với
pháp tắc của thiên nhiên, tùy thuận thiên nhiên th́ mưa
ḥa, gió thuận, tai nạn ǵ cũng đều không có. Nếu
chẳng tùy thuận thiên nhiên, phiền phức sẽ xảy
ra, tai nạn ǵ cũng đều xảy ra. Quy tắc của
thiên nhiên đúng mực là ǵ? Trước khi Phật giáo
truyền sang Trung Quốc, tổ tiên cũng phát hiện; v́
thế, tôi nói tổ tiên là Phật, Bồ Tát hóa thân, đúng
vậy, chẳng giả, họ nói giống như Phật.
Tổ tiên dạy chúng ta Ngũ Luân, Ngũ Thường, Tứ
Duy, Bát Đức, đức Phật cũng giảng những
điều ấy. Ngũ Luân là nói về quan hệ, ta và hết
thảy mọi người có quan hệ ǵ? Ta và hết thảy
động vật có quan hệ ǵ? Với hết thảy
thực vật có quan hệ ǵ? Với núi, sông, đại địa
có quan hệ ǵ? Với toàn thể vũ trụ có quan hệ
ǵ? Đấy là luân lư, nói về các mối quan hệ. Giảng
quan hệ thấu triệt và viên măn nhất là nền giáo dục
của đức Phật! Quan hệ ǵ vậy? Nhất thể.
Phát hiện toàn thể vũ trụ là một sanh mạng,
có chung một Thể, hết thảy chúng sanh và ta là nhất
thể. Nếu quư vị hiểu rơ ràng mối quan hệ ấy,
chấp nhận nó, quư vị sẽ yêu thương con người,
chẳng hại người, hại người là hại
chính ḿnh. Người trong thế gian dẫu đáng ghét đến
mấy đi nữa vẫn là chính ḿnh, chẳng phải là người
ngoài, quư vị có thể chỉ trích kẻ ấy hay chăng?
Quư vị có thể gây tổn hại cho người ấy
hay chăng? Chẳng thể, mà phải là như thế nào?
Phải dạy dỗ kẻ ấy, giúp cho kẻ ấy
quay đầu. Tổ tiên nói con người tánh vốn lành:
“Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”
(con người ban đầu tánh vốn lành). Không chỉ
con người tánh vốn lành, mà như kinh Phật có nói: “Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”,
“hết thảy chúng sanh” bao
gồm cây cối, hoa cỏ, bao gồm núi, sông, đại
địa, bao gồm các hiện tượng thiên nhiên; trong
bất luận hiện tượng nào cũng đều
có trí huệ, đức năng, tướng hảo, nhất
thể mà!
Quan
niệm giáo học của đức Phật và quan niệm
giáo học của cổ thánh tiên hiền Trung Quốc hoàn
toàn tương đồng, đúng như ngạn ngữ đă
nói: “Anh hùng sở kiến,
đại lược tương đồng” (Anh hùng
nói chung có cách nh́n giống nhau). Thích Ca Mâu Ni Phật chưa
hề gặp gỡ các vị tổ tiên của Trung Quốc
như Nghiêu, Thuấn, Vũ, Thang, Văn, Vơ, Châu Công, v́ sao
có cách nghĩ giống nhau, phương pháp giáo học giống
nhau? V́ sao vậy? Phật pháp nói “minh tâm kiến tánh”, chỉ
cần quư vị kiến tánh, sẽ hoàn toàn tương
đồng, t́m được diệu lư Thật Tướng,
xưa nay chẳng thay đổi, vĩnh hằng! Nay nói đến
“chân lư” th́ quư vị đă t́m được chân lư, chứng
thực chân lư, cho nên khởi tâm động niệm thuần
tịnh, thuần thiện, đấy là Phật, Bồ Tát.
Cổ nhân Trung Quốc nói tới
Ngũ Luân chỉ bàn về con người, nói đến mức
cao nhất là “phàm thị nhân,
giai tu ái” (hễ là người th́ đều phải yêu
thương), chẳng bao gồm những loại khác. Phật
pháp truyền tới Trung Quốc, chúng ta vừa nh́n bèn thấy
Phật pháp giảng tỉ mỉ hơn. Phật pháp nói:
Không chỉ là người khác và ta là nhất thể, mà hết
thảy động vật và ta là nhất thể, hết
thảy thực vật và ta là nhất thể, núi, sông,
đại địa và ta là nhất thể, mở rộng
quan hệ luân lư ấy. Ông Thang Ân Tỷ (A. J. Toynbee) đă nói
ông ta hết sức bội phục người Trung Quốc
có tâm lượng lớn, do lượng lớn nên phước
lớn, có thể tiếp nhận văn hóa của dị tộc.
Phật giáo là văn hóa dị tộc, từ Ấn Độ
truyền đến, là ngoại lai, chẳng phải là thứ
có sẵn tại Trung Quốc, mà vẫn có thể tiếp
nhận; nhưng Phật pháp đă thật sự làm phong
phú văn hóa bản địa của Trung Quốc. [Văn
hóa] bản địa Trung Quốc chỉ nói Ngũ Luân, chỉ
luận định trong phạm vi ấy. Phật pháp truyền
đến, chúng ta vừa nh́n vào đă thấy mối quan hệ
ấy (Ngũ Luân) được mở rộng, bao quát cả
vũ trụ, hiện tượng tự nhiên cũng được
bao gồm, Phật pháp đă nâng cao những thứ [vốn
có của] Trung Quốc, có đạo lư ấy! V́ thế, trong
hai ngàn năm qua, tại Trung Quốc, Phật pháp và văn
hóa Trung Quốc đă hoàn toàn dung hợp thành một thể,
chẳng tách rời. Nếu tách rời Phật pháp ra,
văn hóa Trung Quốc sẽ biến thành hết sức hữu
hạn. Thuở sanh thời, cụ Triệu Phác Sơ
thường nói một câu: “Nếu
chúng ta chẳng cần đến văn hóa Phật giáo th́
người Trung Quốc ngay cả nói năng cũng chẳng
nói được!” Nghĩa là ǵ? Trong cuộc sống hằng
ngày, trong ngôn ngữ có rất nhiều thành ngữ phát xuất
từ kinh Phật, đă biến thành thói quen, mở miệng
hay ngậm miệng luôn dùng những thuật ngữ trong
kinh Phật. Câu nói ấy rất có lư!
Đây là một môn đại học vấn,
tiên sinh Phương Đông Mỹ giới thiệu: “Đây là đỉnh cao nhất
trong triết học của toàn bộ thế giới triết
học”; nay chúng ta nh́n lại th́ cũng là đỉnh
cao nhất trong khoa học toàn thế giới. Hiện thời,
khoa học và triết học c̣n có rất nhiều vấn
đề chưa được giải quyết,
[nhưng lời giải đáp cho những vấn đề
ấy] hoàn toàn ở trong kinh Phật. Kinh Phật có thể
giải thích những vấn đề vũ trụ, mà chẳng
thể giải quyết những tệ trạng nẩy
sanh trên quả địa cầu nhỏ nhoi này ư?
Đâu có lẽ ấy! C̣n như những hiện tượng
rối ren trong xă hội, đúng là dễ dàng, đáng gọi
là “lông gà, vỏ tỏi” (vụn
vặt), đáng kể chi đâu? Quư vị thật sự
hiểu, sẽ biết cách giải quyết như thế
nào, lại c̣n [giải quyết] trong một thời gian rất
ngắn, dễ dàng! Ngày nay, nếu mọi người
đều nghiên cứu Phật pháp Đại Thừa, sẽ
như tiến sĩ Thang Ân Tỷ đă nói “dùng học thuyết Khổng Mạnh của Trung Quốc
và Đại Thừa Phật pháp” [để giải quyết
những vấn đề trong xă hội], phải tốn
thời gian bao lâu để thế giới này khôi phục
an định, ḥa b́nh? Theo cách nghĩ và cách nh́n của tôi, tối
đa là một năm, người trên thế giới sẽ
hưởng phước. Cách làm ra sao? Thật sự có
năm sáu chục giáo viên đă nghiên cứu Đại Thừa
Phật pháp và học thuyết Khổng Mạnh; không chỉ
là đă nghiên cứu mà c̣n thật sự làm theo, áp dụng những
điều đă học vào cuộc sống, vào công việc,
áp dụng vào đăi người, tiếp vật. Nói theo Phật
pháp, người ấy có tín, có giải, có hạnh, có chứng,
tự ḿnh đă đạt tới giai
đoạn có thể dạy người, lợi dụng khoa
học kỹ thuật cao, truyền h́nh vệ tinh, mạng
Internet, trong xă hội có một băng tần tốt đẹp
dường ấy, dạy học chẳng gián đoạn
suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ,
[làm như vậy suốt] một năm, toàn thể thế
giới đều nẩy sanh những sự biến hóa,
biến thành tốt đẹp!
Tôi
tin tưởng, dựa vào đâu mà tin tưởng? Cậy
vào thí nghiệm đă làm trong ba năm tại Thang Tŕ trong quá
khứ. Chúng tôi dùng một tiểu trấn, cư dân trong tiểu
trấn ấy là bốn vạn tám ngàn người, chúng tôi
thực hiện Đệ Tử Quy để xem thử có
làm được suông sẻ hay không? Thực hiện thí
nghiệm nhỏ nhặt ấy, chúng tôi dùng một món trong ba
cội gốc của Nho, Thích, Đạo để thí nghiệm.
Không ngờ, chưa đầy bốn tháng, tiểu trấn
ấy đă dấy lên sự biến hóa rất lớn, khiến
cho người ta được mở rộng tầm mắt.
Chúng ta cảm nhận được, chứng tỏ câu nói
của cổ thánh tiên hiền: “Nhân
chi sơ, tánh bổn thiện”, khiến cho chúng ta đích
thân tận mắt thấy nhân dân dễ dạy dường
ấy! Chỉ dạy một thứ trong ba cội rễ của
văn hóa truyền thống mà hiệu quả đă to ngần
ấy. Nếu cả ba cội rễ đều dạy, hiệu
quả sẽ to hơn nhiều! Khi ấy, các giáo viên dạy
học của chúng tôi gồm ba mươi bảy người;
v́ vậy, tôi nghĩ, nếu quốc gia có thể bồi dưỡng
năm sáu chục giáo viên như vậy, họ thật sự
thực hiện, [tức là đối với] ba món căn
bản [của Nho, Đạo, Thích] đều làm được,
hằng ngày dạy trên đài truyền h́nh, chính ḿnh có nơi
chốn thực nghiệm, quư vị đến đó xem, đích
thân đến đó học tập, trong một năm, xă hội
an định, thiên hạ đại trị!
Qua nhiều năm
học tập, tôi đă nh́n thấy, hiểu rơ, chúng tôi chẳng
đủ điều kiện, muốn t́m một nơi để
thực nghiệm, nhưng t́m chẳng ra. Cuộc thực
nghiệm tại Trang Tŕ đă làm suốt ba năm, rất
khó có, đến cuối cùng vẫn phải giải tán; nhưng
hiện thời tại Cát Long Ba (Kuala Lumpur) của Mă Lai, họ
tiếp tục thực hiện, hiện thời đă bồi
dưỡng huấn luyện đến lần thứ ba.
Nếu thực hiện thành công, sẽ ảnh hưởng
cả thế giới, quư vị thật sự nêu gương,
sau đấy, để cho những giáo viên đó lên đài
truyền h́nh quốc gia giảng giải, đề xướng
giáo dục toàn dân trong cả xă hội. Chánh phủ Mă Lai rất
muốn làm theo kiểu ấy, tôi tin họ sẽ có thể
thực hiện thành công. Con người có thiện hạnh,
thiện hạnh có nguyện lực chẳng thể
nghĩ bàn, trong tôn giáo thường nói là “được chư thần phù hộ”, sẽ có
thể làm chuyện ấy viên măn, làm thành công!
V́
chân lư vĩnh hằng không thay đổi, nên gọi là Như,
đúng lư mà nói, những điều Ngài nói hoàn toàn tương
ứng với đạo lư ấy, chẳng hề trái nghịch,
nên gọi là Thị. Đấy là ư nghĩa chân thật của
hai chữ Như Thị. Đó là cách giải thích thông thường,
v́ câu đầu tiên trong tất cả các kinh Phật là “như thị ngă văn”, cách
nói ấy thích hợp tất cả các kinh điển. Tiếp
theo đó, [cụ Hoàng viết] “kim
y bổn kinh” (nay xét theo kinh này), chúng ta giảng hai chữ
Như Thị trong kinh này như thế nào? “Ngẫu Ích đại sư viết” (Ngẫu Ích
đại sư nói), Ngẫu Ích đại sư là người
cuối đời Minh đầu đời Thanh, Ngài sanh
vào năm cuối thời Vạn Lịch nhà Minh, viên tịch
vào đời Thanh, là tổ sư đời thứ chín của
Tịnh Độ Tông, đời thứ tám là Liên Tŕ đại
sư. Qua trước thuật của Ngài (Ngẫu Ích đại
sư), chúng ta thấy thuở trẻ Ngài vô cùng bội phục
Liên Tŕ đại sư, hết sức tôn kính, mong học
theo Liên Tŕ đại sư. Liên Tŕ đại sư đă
văng sanh, nhưng những trước tác của Liên Tŕ
đại sư vẫn c̣n đó; nay chúng ta thấy Liên Tŕ Đại
Sư Toàn Tập, bộ sách này hăy c̣n, tổ Ngẫu Ích bèn
học theo bộ sách ấy, nương theo trước
tác của Liên Tŕ đại sư để học tập,
làm học tṛ của Liên Tŕ đại sư. Giống như
Mạnh Tử ở Trung Quốc vào thời cổ, Mạnh
Tử ngưỡng mộ Khổng Tử, muốn học
theo Khổng Tử, Khổng Tử đă khuất bóng, nhưng
trước tác của Khổng Tử hăy c̣n, Ngài bèn tự
học tập theo trước tác của Khổng Tử,
chỗ nào không hiểu bèn hỏi học tṛ của Khổng
Tử. Ngài thật sự học thành công, đó gọi là “tư thục đệ tử”.
Ngài học vô cùng giỏi. Quư vị thấy Trung Quốc nói
“Khổng Mạnh”, có thể thấy được thành tích
học tập của Ngài. Chúng ta biết trong các đệ
tử của Khổng Tử có Tăng Tử (Tăng Sâm).
Quư vị đọc Luận ngữ, thấy nhiều chỗ
đề “Tăng Tử nói”,
[những chỗ do Khổng Tử nói, sẽ ghi là] “tử thuyết”. Những học
tṛ của Khổng Tử thuở ấy đều thua Mạnh
Tử, tư thục đệ tử cũng có thể
vượt trỗi những học tṛ do đích thân Khổng
Tử giảng dạy, xuất loại bạt tụy. Ngày
nay, [hễ nói đến Nho giáo, người ta] nói Khổng
Mạnh, chẳng nói Khổng Tăng, chẳng nói Khổng
Hữu[2]. [Mạnh Tử] đă thành công!
Ngẫu Ích đại sư là tư thục đệ tử
của Liên Tŕ đại sư, trong Phật môn, quả thật
thành tựu của Ngài cũng vượt trỗi những
học tṛ do chính Liên Tŕ đại sư dạy bảo thuở
ấy, [trong số các môn đệ của tổ Liên Tŕ],
chẳng có ai sánh bằng ngài Ngẫu Ích.
Do
vậy, nh́n từ những trường hợp ấy, đúng
là “sư phụ lănh tấn môn,
tu hành tại cá nhân” (thầy dẫn tṛ nhập môn, tu hành
do cá nhân). Có thành tựu hay không, chẳng liên quan đến
thầy cho lắm, mà vấn đề ở chỗ quư vị
khéo học, tức là quư vị biết học. Câu thường
xuyên được nói trong Tông Môn là “hội ma?” (hiểu không?) Câu ấy có ư nghĩa rất
sâu! Thật sự biết học, không chỉ học giống
như Khổng Tử, mà có khi c̣n vượt trội, học
tṛ giỏi hơn thầy! Cổ nhân đă nói: “Thanh xuất ư lam, nhi thắng
ư lam” (màu xanh phát xuất từ màu chàm mà trỗi hơn
màu chàm), đấy là học tṛ vượt trội thầy,
do biết học. Chẳng biết học th́ thầy dạy
bảo quư vị hằng ngày, quư vị vẫn chẳng thể
thành tựu! Do vậy, chữ Hội (hiểu) này có quan hệ
khá lớn! Thế nào mới là Hội? Thật sự hiểu
th́ nói thật ra sáu chữ đă gồm trọn: “Thật thà, nghe lời, thật sự
hành”, người ấy là người biết học.
Quư vị phải biến những thứ đă học thành
cuộc sống của chính ḿnh, chẳng hạn như Ngũ
Luân giảng về quan hệ, quư vị hiểu rơ, biết
tôn ty trên dưới, đối với bậc trưởng
thượng phải tôn kính, đối với kẻ dưới
phải yêu thương, phải làm được [như
thế]. Làm những ǵ? Mười hai chữ! Tất cả
đức hạnh, Ngũ Luân, Tứ Duy, Bát Đức của
Trung Quốc được gom chung lại thành mười
hai chữ “hiếu, đễ,
trung, tín, lễ, nghĩa, liêm sỉ, nhân ái, ḥa b́nh”. Mười
hai chữ ấy được hoàn toàn biểu hiện
trong cuộc sống, công việc, xử sự, đăi người,
tiếp vật, tức là quư vị đă hiểu. Quư vị
học theo thánh sẽ là thánh nhân, học theo hiền sẽ
là hiền nhân, trọn chẳng kém cổ thánh tiên hiền, mà
cũng có thể là quư vị sẽ vượt trỗi họ.
Quư vị học Phật, có thể thành Phật; học Bồ
Tát, có thể thành Bồ Tát. Chư vị phải biết “Phật,
Bồ Tát” là thuật ngữ trong Phật môn, nghĩa là ǵ?
Phật là tiếng Ấn Độ, dịch sang nghĩa tiếng
Hán là “giác ngộ”. Phật nghĩa là ǵ? Phật là người
giác ngộ, giác chứ không mê, người ấy được
gọi là Phật, có ư nghĩa hoàn toàn tương đồng
với chữ Thánh của Trung Quốc. Thánh (聖) là người hiểu rơ, thông
đạt, thấu suốt hết thảy sự lư,
người ấy được gọi là “thánh nhân”. V́ thế, Phật và
thánh rất gần gũi. Thuở ấy, v́ sao dịch kinh
chẳng dùng chữ Thánh để dịch chữ Phật,
mà vẫn giữ nguyên âm gốc? Phật bao hàm những ư
nghĩa rộng và sâu hơn thánh, tại Trung Quốc chẳng
t́m được chữ nào thích hợp; v́ thế, dịch
âm, rồi giải thích thêm. V́ Phật được dịch
là Giác, th́ trong Giác lại có ba thứ giác, có tự giác, giác
tha và giác hạnh viên măn, chẳng t́m được [chữ
nào tương ứng với] những ư nghĩa ấy tại
Trung Quốc. Trong chữ Phật có ư nghĩa trí huệ, nhưng
cũng chẳng có cách nào dùng chữ “trí huệ” để
dịch [chữ Phật], v́ trí huệ của Phật có ba
loại: Nhất Thiết Trí, Đạo Chủng Trí, và Nhất
Thiết Chủng Trí, chữ “trí huệ” của Trung Quốc
chẳng có những ư nghĩa ấy. V́ thế, chữ Phật
hàm nghĩa sâu rộng hơn chữ Thánh, nhưng ư nghĩa
rất gần gũi. Quư vị hiểu ư nghĩa ấy, nó
là danh xưng của học vị trong Phật môn.
Trong
kinh, đức Phật đă nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh vốn là Phật”, hiện
thời quư vị có phải là Phật hay không? Phải!
Trong mắt Phật, đúng là như vậy! Quư vị phản
đối Phật là phản đối chính ḿnh, phản đối
điều ǵ nơi chính ḿnh? Phản đối sự giác
ngộ của chính ḿnh. Nói cách khác, quư vị chẳng muốn
giác ngộ, chẳng phải là đă biến thành kẻ hồ
đồ ư? Quư vị có mong làm một kẻ hồ đồ
hay chăng? Hay là mong làm một người có trí huệ? Phật
là người có trí huệ; quư vị vốn là Phật, v́
sao chẳng thể giác ngộ, mà bị mê hoặc? V́ như
đức Phật đă giảng: Quư vị mê mất tự
tánh, sau khi đă mê bèn nẩy sanh tự tư tự lợi.
Tự tư tự lợi mở rộng ra nhất định
sẽ là [đuổi theo] tiếng tăm, lợi dưỡng,
khởi tâm động niệm tổn người lợi
ḿnh, đấy là sai lầm. Quư vị vốn khởi tâm
động niệm là vô ngă, lợi ích chúng sanh, nay quư vị
đang mê. Quư vị phải biết vô ngă, khởi tâm động
niệm lợi ích chúng sanh, hết thảy hành vi cũng nhằm
lợi ích chúng sanh, đó chính là “bổn lai diện mục”
(diện mạo vốn có) của quư vị. Tại Trung Quốc,
Mao Chủ Tịch có nói: “Toàn
tâm toàn ư v́ nhân dân phục vụ”, [người làm được
như vậy] là Phật. Phản đối Phật là phản
đối “toàn tâm toàn lực v́ nhân dân phục vụ”, chẳng
phải là có ư nghĩa như thế hay sao? Do vậy, quư vị
phải hiểu thấu suốt, rơ ràng th́ mới được.
Nếu không, sẽ là lời đùa bỡn. Phật là ǵ? Chẳng
biết, ngỡ Phật là thần, oan uổng lớn tầy
trời! Ngỡ Bồ Tát là thần, có hỏng bét hay là không?
Trong Phật giáo chẳng có thần, trong tôn giáo mới có thần,
Phật giáo chẳng phải là tôn giáo. Trong Phật giáo chỉ
có hai thứ quan hệ: Một là thầy, hai là tṛ. Bồ
Tát là học tṛ, A La Hán là học tṛ, chúng ta cũng là học
tṛ. Bồ Tát và A La Hán đă đạt được quả
vị, giống như đi học trong nhà trường, người
nào đạt được học vị Thạc Sĩ
th́ là Bồ Tát; đạt được học vị Học
Sĩ th́ là A La Hán. Chúng ta học trong nhà trường chưa
đạt được học vị; nói cách khác, chúng ta
học Tiểu Học, học Trung Học, phải học
Đại Học mới có học vị. [Phật, Bồ
Tát, La Hán] là những danh xưng học vị. Học vị
tối cao là Phật Đà tương đương học
vị Tiến Sĩ, mỗi cá nhân đều có thể đạt
được, ai nấy đều có thể thành Phật,
giống như Trung Quốc nói “ai
cũng đều có thể thành thánh nhân”, có ư nghĩa như
vậy đó! Học Phật, chẳng có mảy may mê tín. Hết
sức đáng tiếc, hiện thời khá nhiều đệ
tử Phật môn, bất luận xuất gia hay tại gia,
chẳng thể hiểu rơ hay nói rơ về Phật pháp, điều
này thật đáng tiếc! Nếu tôi không gặp ba vị
thầy tốt đẹp là thầy Phương, Chương
Gia đại sư và lăo cư sĩ Lư Bỉnh Nam, chắc
chắn là chúng tôi mê tín, nhất định chẳng chịu
nhập Phật môn, v́ sao? Chẳng biết ǵ về Phật
môn! Gặp được ba vị ấy giảng giải
rơ ràng, minh bạch Phật pháp, chúng tôi mới thật sự
phát tâm, thật sự t́nh nguyện học tập nền
giáo dục của đức Phật, biết đây là một
môn đại học vấn. Đức Phật dạy những
điều ǵ? Nếu nói theo cách bây giờ, chẳng ngoài năm
hạng mục sau đây: Đức Phật dạy chúng ta
luân lư, đạo đức, nhân quả, triết học, và
khoa học, năm môn công khóa đều đạt đến
tột đỉnh, đạt đến rốt ráo viên
măn. Những thứ tốt đẹp dường ấy, đă
gặp gỡ mà không chịu sốt sắng học tập,
quư vị nói có phải là đáng tiếc lắm hay chăng?
Nghiêm túc học tập, chẳng phí uổng sanh trong nhân gian
lần này, lần này đến đây có ư nghĩa, có giá trị.
Cổ nhân Trung Quốc nói: “Triêu
văn đạo, tịch tử khả hỹ” (Sáng nghe
đạo, tối chết cũng được). Học
Phật, nhất là học tập Đại Thừa, đối
với câu nói này rất bội phục, v́ sao? Trong Phật
pháp, tất cả toàn bộ những vấn đề của
bản thân chúng ta đều được giải quyết,
thân tâm tự tại, đúng như thầy Phương
đă nói, là sự hưởng thụ cao nhất trong đời
người, tôi c̣n thay đổi câu ấy thành: “Phước báo khôn sánh, phước
báo lớn nhất trong đời người!”
Ngẫu
Ích đại sư nói: “Y Thật
Tướng lư, niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
quyết định vô phi, viết Thị” (nương
theo lư Thật Tướng, niệm Phật cầu sanh Tịnh
Độ, quyết định chẳng sai, đó là Thị),
Ngẫu Ích đại sư nói câu này hoàn toàn quy về pháp
môn Tịnh Độ.“Y Thật
Tướng lư niệm Phật”, câu này khẩn yếu, mấu
chốt ở ngay trong câu này. Nay chúng ta niệm Phật, chẳng
phải là nương theo lư Thật Tướng. V́ sao chúng
ta niệm Phật chẳng thể thành tựu, chuốc lấy
sự chán ghét của người khác, [họ nghĩ] quư vị
đang làm chuyện mê tín? Không thể trách người khác,
bản thân chúng ta nương theo tập khí phiền năo niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, làm sao có thể văng
sanh cho được? Không thể được! Quư vị
niệm Phật nhằm mục đích nào? Quư vị hăy suy
xét, tuyệt đại đa số là v́ thăng quan, v́ phát
tài, nên cầu Phật, Bồ Tát phù hộ, chẳng phải
là cầu sanh Tịnh Độ. Động cơ
(motivation) niệm Phật của kẻ ấy chẳng
thanh tịnh, mục đích niệm Phật của người
ấy trái ngược với phương hướng mà
Phật pháp đă giảng, làm sao có thể có thành tựu cho
được? Phật, Bồ Tát không thể nào phù hộ
quư vị thăng quan, phát tài, chẳng có lẽ ấy! Vậy
là quư vị đi t́m thần thánh [để cầu xin]; thật
ra, thần thánh cũng chẳng thể thật sự phù hộ
quư vị, lừa gạt quư vị đó thôi! Quư vị nghe
lừa, chẳng nghe lời khuyên, chẳng có cách nào hết!
Nhưng quư vị mong thăng quan, phát tài, Phật thật sự
có thể giúp đỡ, v́ sao? Quư vị muốn được
quả báo ấy, quả ắt có nhân, đức Phật
biết nhân, có thể giảng đạo lư ấy rơ ràng, giảng
rơ phương pháp, quư vị nương theo lư luận và phương
pháp ấy để hành, quả báo có thể hiện tiền,
điều ấy được gọi là “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”
(trong cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng). Thật đấy!
Cầu phước báo, đắc phước báo, cầu
thông minh, trí huệ, được thông minh, trí huệ, cầu
trường thọ được trường thọ, cầu
con cái được con cái, đúng là “hữu cầu tất ứng”. Năm xưa, Chương
Gia đại sư dạy tôi đạo lư này, Ngài nói rất
rơ ràng: “Anh hăy học tập đúng
lư, đúng pháp, vẫn do chính anh tu nhân đắc quả báo”.
Đức Phật chỉ có thể chỉ dẫn quư vị
trên phương diện lư luận và phương pháp, vẫn
phải do chính quư vị làm. Nếu bản thân quư vị không
làm, sẽ chẳng đạt được! Bởi lẽ,
“ông tu ông đắc, bà tu bà
đắc, chẳng tu chẳng đắc”. Đức Phật
nói như thế, chẳng phải là mê tín. Mục đích của
người niệm Phật là muốn cầu sanh về thế
giới Cực Lạc, quư vị nhất định nương
theo lư Thật Tướng. Lư Thật Tướng là ǵ? Ba điều
kiện trong pháp môn Tịnh Tông, tức Tín, Nguyện, Hạnh.
Chúng ta thấy người tu Tịnh Độ có mấy kẻ
thật sự trọn đủ ba điều kiện ấy?
Mỗi cá nhân đều nói “tôi tin tưởng, tôi phát nguyện”,
thật ra, quư vị chú tâm phản tỉnh, [sẽ thấy]
ḷng tin của quư vị chẳng phải là chân tín. Quư vị
tiếp xúc tiếng tăm, lợi dưỡng của thế
gian, vẫn c̣n bị động tâm, tham luyến, [tức
là] tín chẳng thật, nguyện cũng chẳng thật, chẳng
phải là “chân tín, thiết nguyện”
(tin chân thành, nguyện thiết tha). Do vậy, quư vị niệm
Phật nhiều năm mà chẳng có cảm ứng ǵ, đến
cuối cùng bèn chẳng tin tưởng. Vấn đề
này chẳng phải do Thích Ca Mâu Ni Phật, mà cũng chẳng
do kinh điển, mà do công phu của chính chúng ta không đủ,
bản thân chúng ta hiểu lầm kinh điển, chẳng
lư giải chính xác, hiểu biết nửa vời, tu mù, luyện
đui, vẫn khiến cho chư Phật và kinh điển
bị oan uổng, quư vị nói xem tội lỗi ấy có nặng
lắm hay chăng?
Trong
phần sau, cụ Hoàng Niệm Tổ có giải thích ba câu nói
ấy của đại sư, chúng ta xem lời giải thích
của cụ Hoàng. “Cái Thật
Tướng diệu lư, chỉ thị đương tiền
nhất niệm tâm chi tự tánh” (bởi diệu lư Thật
Tướng chỉ là tự tánh của một niệm tâm
hiện tiền), câu này giảng rất hay! Tự tánh của
nhất niệm chẳng dễ hiểu, chúng ta cùng nhau học
tập một thời gian dài, nghe câu nói ấy sẽ chẳng
thấy khó hiểu, v́ sao? Kinh Hoa Nghiêm đă giảng rơ ràng
nhất niệm tâm là ǵ? Là như sách Hoàn Nguyên Quán đă nói “tự tánh thanh tịnh viên minh thể”,
đấy là nhất niệm tâm. Dùng tâm ấy để niệm
Phật, quả báo sẽ rất thù thắng; đấy chính
là như trong Tịnh Tông đă nói: “Nhất niệm tương ứng nhất niệm
Phật, niệm niệm tương ứng niệm niệm
Phật”, chẳng giả tí nào. Quư vị và Cực Lạc
thế giới A Di Đà Phật liên kết, thật sự
thông suốt. Quay trở lại suy nghĩ, nay chúng ta đang
dùng tâm ǵ? Dùng tâm vọng tưởng, tâm tạp loạn, cái
tâm ấy quá nhiều ư niệm. Nhất niệm là định,
chẳng có tạp niệm nào, tức là như Đại
Thế Chí Bồ Tát đă yêu cầu “nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp
nối”, trong câu này, Đại Thế Chí Bồ Tát nói tám
chữ, há có lẽ nào chẳng thành tựu! “Nhiếp trọn sáu căn” là buông vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước xuống; đấy gọi
là “nhiếp trọn sáu căn”.
“Tịnh niệm tiếp nối” là ư niệm thanh tịnh,
tịnh niệm là ǵ? Chẳng hoài nghi, chẳng xen tạp là
tịnh, đấy là nhất niệm tâm. Rời khỏi vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước là tự
tánh, trong tự tánh không có những thứ ấy. “Tương kế” là chẳng
gián đoạn, niệm niệm chẳng gián đoạn. Đấy
là “như thị ngă văn”.
“Phi sanh, phi diệt, vô khứ, vô
lai, trạm nhiên thường trụ, cố danh viết
Như” (chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng đi,
chẳng đến, lặng trong, thường trụ, nên
gọi là Như), mấy câu này do cụ Niệm Tổ nói. Tâm
này chẳng phải là tâm sanh diệt, chẳng có đến,
đi, là nhất niệm ngay trong hiện tại. “Trạm nhiên thường trụ”,
thường trụ là chân tâm, “trụ”
là định, Niệm Phật tam-muội. Niệm niệm
đều là một câu A Di Đà Phật, niệm niệm
là tâm thanh tịnh, niệm niệm chẳng có vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, quư vị tương
ứng với Như.
“Y thử tâm tánh niệm Phật, cầu sanh
Tịnh Độ. Năng niệm thị Thật Tướng
tâm (thị chân tâm), sở niệm thị Thật Tướng
Phật, sở sanh thị Thật Tướng độ,
hàm vị Thật Tướng chánh ấn chi sở ấn. Cố
đại sư viết, quyết định vô phi, viết
Thị” (Nương
theo tâm tánh ấy niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ.
Chủ thể để niệm là cái tâm Thật Tướng
(tức là chân tâm), đối tượng được
niệm là Thật Tướng Phật, cơi được
sanh về cơi Thật Tướng, đều được
chánh ấn Thật Tướng in vào. V́ thế, đại
sư nói: “Quyết định chẳng sai là Thị”). Mấu
chốt trong mấy câu này là tâm Thật Tướng. Tâm Thật
Tướng là chân tâm, năng niệm là chân tâm, sở niệm
là chân Phật. Phật do đâu mà có? Phật do tâm quư vị
hiện, duy tâm sở hiện. Trong phần khai thị của
Hệ Niệm Phật Sự, thiền sư Trung Phong đă
giảng về A Di Đà Phật, hai câu ấy rất trọng
yếu, hoàn toàn giống như lời giảng ở đây:
“A Di Đà Phật tức thị
ngă tâm” (A Di Đà Phật chính là tâm ta), tâm ta là A Di Đà
Phật. Năng niệm là tâm Thật Tướng, chân tâm, A
Di Đà Phật do tâm quư vị hiện, duy tâm sở hiện,
quư vị thấy trong mối quan hệ luân lư, nó có cùng một
Thể với quư vị. “Độ”
(cơi nước) là ǵ? Thế giới Cực Lạc! Thiền
sư Trung Phong nói: “Thử
phương tức Tịnh Độ, Tịnh Độ tức
thử phương” (Phương này chính là Tịnh
Độ, Tịnh Độ chính là phương này). Thế
giới Cực Lạc ở nơi đâu? Ở ngay nơi
đây. Quư vị là chân tâm sẽ thấy thế giới này
là Tịnh Độ; quư vị có vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, sẽ thấy thế giới
này là uế độ, cảnh chuyển theo tâm mà!
Chân
tướng sự thật này được các nhà khoa học
Lượng Tử hiện thời phát hiện, họ bảo
cho chúng ta biết, chúng ta đối với địa cầu
sanh khởi tín tâm khôn sánh, chúng ta có thể cứu vớt
địa cầu. Cứu vớt bằng cách nào? Quư vị
chuyển biến tâm thái, địa cầu sẽ chuyển
biến. Hiện thời trên địa cầu có lắm bệnh
tật như thế là do tâm thái của chúng ta không b́nh
thường, trái nghịch Tánh Đức. Cũng là như
người Trung Quốc đă nói, người Trung Quốc
gọi Tánh Đức là “hiếu, đễ, trung, tín”, quư vị
bất hiếu, bất đễ, bất trung, bất tín,
chẳng có lễ, nghĩa, liêm, sỉ, vô lễ, vô
nghĩa, vô liêm, vô sỉ, nhân ái ḥa b́nh cũng không có, cho nên địa
cầu nẩy sanh vấn đề. Nếu chúng ta đổi
lại, mười hai chữ ấy thảy đều làm
được, trên địa cầu này sẽ chẳng có
tai nạn ǵ; thật đấy, chẳng giả tí nào! Thân
thể chúng ta có bệnh, quư vị thấy thầy lang Bành
Hâm nói bệnh do đâu mà có? Quư vị trái nghịch nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín, bất nhân, bất nghĩa, vô lễ,
vô tín, cho nên ngũ tạng, lục phủ có bệnh. Nếu
quư vị giác ngộ, buông xuống những thứ trái nghịch
tự tánh, nâng cao Tánh Đức, tức là Ngũ Thường,
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, quư vị thật sự có thể
làm được, những tế bào bị bệnh bên
trong [thân thể] sẽ khôi phục b́nh thường rất
nhanh chóng, khôi phục b́nh
thường là khỏe mạnh. Có cần dùng đến
thuốc men hay không? Không cần! Chính ḿnh có thể tự
điều trị. Chuyện này là thật, chẳng phải
giả. Quư vị thấy hiện thời có nhiều người
bị ung thư, bệnh viện bó tay, hết cách, tuyên bố
người bệnh chỉ có thể sống tối đa
ba tháng, nhưng người ấy gặp văn hóa truyền
thống, hiểu đạo lư này, điều chỉnh tâm
thái, sau ba tháng bèn lành bệnh, kiểm tra lại chẳng
c̣n nữa, kỳ tích phát sanh! Chẳng kỳ quái một tí
nào! Kỳ tích ở chỗ nào! Là đạo lư ǵ? Hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng, tâm tưởng thuần
chánh, sẽ khỏe mạnh, trường thọ, tất cả
tật bệnh sẽ khôi phục b́nh thường, chẳng
phải là mê tín!
Cổ
nhân bảo chúng ta như vậy, mà trong kinh điển, đức
Phật cũng dạy chúng ta như vậy, rất khó có, chúng
ta rất cảm kích. Cận đại, các khoa học gia
ngành Lượng Tử cũng nói như vậy. Điểm
mấu chốt là quư vị có thể tin tưởng hay không?
“Tín vi đạo nguyên, công
đức mẫu” (Tin là nguồn đạo, mẹ công
đức), mấu chốt ở chữ Tín này. Chân tín, chẳng
hoài nghi một tí nào, sẽ khôi phục, các tế bào bị
bệnh sẽ khôi phục b́nh thường. V́ sao? Do hết
thảy các pháp sanh từ ư niệm. Các nhà khoa học Lượng
Tử cho biết tế bào là vật chất, tế bào khỏe
mạnh là vật chất, virus cũng là vật chất, chẳng
phải là thứ ǵ khác. Vật chất nghe theo ai? Nghe theo ư
niệm. V́ thế, ư niệm của chúng ta cải tà quy
chánh, toàn bộ những tế bào trong ấy sẽ khôi phục
b́nh thường. Thuần tịnh, thuần thiện, quư vị
là thân Kim Cang bất hoại, Phật có thể chứng
đắc, mà chúng ta cũng có thể chứng đắc. Thứ
ǵ là cội nguồn của tật bệnh? Tham, sân, si, c̣n
thêm ngạo mạn, [trở thành bốn thứ là] tham, sân,
si, mạn, đấy là [cội nguồn] của tất cả
hết thảy bệnh tật, chuyển biến tế bào
khỏe mạnh thành tế bào bệnh tật là do bốn
thứ ấy. V́ thế, đức Phật dạy chúng ta:
“Siêng tu Giới, Định, Huệ,
dứt diệt tham, sân, si”, đối với chính ḿnh mà
nói, sẽ khỏe mạnh, trường thọ, hạnh phúc,
vui sướng, quư vị thật sự có thể làm
được, gia đ́nh quư vị mỹ măn, sự nghiệp
thuận lợi; sống ở nơi nào, quư vị có thể
cảm hóa nơi ấy, nơi ấy ḥa hài, chẳng gặp
tai nạn. Thật sự làm được, chẳng phải
là làm không được! V́ thế, phải dùng chân tâm. Tâm Thật
Tướng là Thật Tướng Phật, là tự tánh Di
Đà; thế giới Cực Lạc là Thật Tướng
độ, duy tâm Tịnh Độ, “đều được chánh ấn Thật Tướng
in vào”, câu này là tỷ dụ. Từ thời cổ, người
Hoa dùng ấn chương để thể hiện sự
tín nhiệm; con dấu biểu thị chữ Tín. [Ở đây],
con dấu ấy là Thật Tướng chánh ấn. Không có ǵ
chẳng phải là Thật Tướng, nó hoàn toàn tương
ứng với Thật Tướng, hoàn toàn tương ứng.
V́ thế, Ngẫu Ích đại sư nói “quyết định không sai là Thị”. Chúng ta học
Như Thị đến đây.
Tiếp
đến là nói về Ngă Văn. “Ngă văn giả, Văn Thành Tựu” (Ngă Văn là
Văn Thành Tựu), tức là Văn Thành Tựu trong sáu món thành
tựu. “A Nan kết tập
pháp tạng thời tự ngôn, như thị pháp môn, ngă tùng
Phật văn” (khi ngài A Nan kết tập pháp tạng tự
nói: “Pháp môn như thế tôi nghe từ đức Phật”).
Đây là nói rơ, Ngài lên ṭa phức giảng (複講: nhắc lại lời giảng,
trùng tuyên), chẳng phải do chính Ngài nói, mà do nghe đức
Phật đă nói như vậy. “Ngă”
là chính ḿnh, “Văn” là tôi đích
thân nghe, bảo đại chúng như vậy ḥng chứng tín.
Trong hết thảy các việc học tập và tu hành thuộc
Phật pháp, điều này vô cùng trọng yếu. Theo lịch
sử Trung Quốc ghi chép về Phật pháp, Thích Ca Mâu Ni Phật
nhập diệt, cũng là đă qua đời, cho đến
nay là ba ngàn lẻ ba mươi bảy năm, lịch sử
Trung Quốc ghi chép như vậy. Ngài nhập diệt năm
thứ năm mươi ba đời Châu Mục Vương,
tính từ khi đó cho đến nay là ba ngàn lẻ ba
mươi bảy năm. Đương nhiên người ngoại
quốc cũng có căn cứ, họ nói năm nay là năm
thứ hai ngàn năm trăm năm mươi bốn [kể
từ khi đức Phật nhập diệt]. Trung Quốc
và ngoại quốc ghi chép gần như sai lệch sáu trăm
năm, chúng ta chớ nên bận tâm đến điều này,
đừng nên phân biệt, chấp trước. Nói chung, tối
thiểu Thích Ca Mâu Ni Phật cách chúng ta hai ngàn năm trăm
năm trở lên theo cách ghi chép của người Trung Quốc.
Trong quá khứ, những vị đại đức trong Phật
môn Trung Quốc, kể cả lăo ḥa thượng Hư Vân,
và những vị đại đức thời đầu
Dân Quốc, đều dùng [cách ghi Phật lịch] theo niên đại
của Trung Quốc, tức là ba ngàn lẻ ba mươi bảy
năm, đều dùng lối này. Thời gian lâu dài như
thế, những vị đại đức hoằng pháp
và hộ pháp trải các đời, đặc biệt là những
vị hoằng pháp, giảng kinh, giáo học, họ bồi
dưỡng, học tập thành công như thế nào? Toàn là
học theo kiểu của ngài A Nan, phải biết điều
này, tức là đều do giảng tiểu ṭa mà thành công.
Tôi
đến Hương Cảng giảng kinh Lăng Nghiêm lần
đầu, suốt bốn tháng, lần đầu tiên, tôi ở
đó bốn tháng, vào năm 1977, hơn ba mươi năm
trước đây, nhằm lúc pháp sư Diễn Bồi ở
nơi đấy, tôi và Ngài đă quen biết tại Đài
Loan. Các Ngài có một chiếc xe bus đi ngoạn cảnh Hương
Cảng, mời tôi đi cùng, chúng tôi ngồi cùng một chỗ.
Ngài nhắc tới các pháp sư hoằng pháp, nói tới Phật
học viện, vô cùng cảm khái bảo: “Phật học
viện không đào tạo nổi nhân tài!” Vào lúc ấy, c̣n
có những vị đại đức giảng kinh, thảy
đều xuất thân từ giảng tiểu ṭa, Ngài chỉ
tôi: “Kể cả ông nữa!” Đúng vậy! Chúng tôi là giảng
tiểu ṭa, là phức giảng. Phức giảng do ngài A Nan
khởi đầu, ngài A Nan lên ṭa giảng kinh, hoàn toàn là phức
giảng lời dạy của Thích Ca Mâu Ni Phật, chẳng
thể thêm vào đó một tí ư kiến nào của chính ḿnh. Cổ
nhân giáo học rất nghiêm ngặt, chính ḿnh có ngộ xứ,
quư vị chẳng thể giảng [những ǵ thuộc về
ngộ xứ ấy], mà vẫn phải giảng theo lời
thầy, v́ sao? Huấn luyện định lực và sự
khiêm hư cho quư vị, cũng là quyết định không thêm
một chữ nào vào lời giảng của thầy. Đấy
là ǵ? Thật thà, nghe lời! Tới khi nào mới có thể
nêu tỏ ư nghĩa của chính ḿnh? Khi chính ḿnh đă có ngộ
xứ, khai ngộ. Trước khi chính ḿnh khai ngộ, quyết
định tuân thủ lời thầy dạy; trước
kia, nghiêm ngặt như thế đó. Do vậy, đời
nào cũng xuất hiện cao tăng, cao nhân, phương
pháp ấy hay lắm! Nhưng trong hiện thời, dân chủ
cởi mở, tự do, sẽ không thể hạn chế.
Do vậy, ít người xuất hiện trong đời này,
chẳng bằng quá khứ. V́ sao? Chẳng nghiêm ngặt như
vậy. Nghiêm ngặt th́ có lợi ở chỗ nào? Trong ấy,
có Tam Học Giới - Định - Huệ. Hiện tại,
quư vị có thể tự do phô diễn ư tưởng, chính
ḿnh sưu tập tài liệu, chứ Giới - Định
- Huệ chẳng có. Không có Giới - Định - Huệ, sẽ
biến thành ǵ? Biến thành Phật học, biến thành học
thuật, khác hẳn trước kia: Hoàn toàn từ Giới
- Định - Huệ bồi dưỡng Tánh Đức của
quư vị. Muốn thật sự phục hưng Phật
giáo, vẫn phải dùng phương pháp cũ; không dùng đến
biện pháp cũ, sẽ bồi dưỡng thành học giả,
chuyên gia, giống như trong đại học hiện thời
bồi dưỡng những tiến sĩ, đức hạnh
thua sút rất xa. Đức hạnh là ǵ? Thật thà, nghe lời,
thật sự tu tập, họ chẳng có những đức
hạnh ấy. Ngài A Nan nêu gương đầu tiên, mấy
ngàn năm qua đă bồi dưỡng pháp sư giảng
kinh bằng phương pháp này. Bồi dưỡng theo cách
nào? Pháp sư thăng ṭa giảng kinh, trong một giảng đường
có hai điều kiện để tuyển chọn, tức
là hai điều kiện [bắt buộc] đối với
người học kinh để làm pháp sư giảng
kinh: Thứ nhất là có trí nhớ tốt, nghe xong một lần
sẽ chẳng quên mất; thứ hai là có sức lư giải
mạnh mẽ. Đấy là hai nguyên nhân cơ bản, không
có hai điều kiện này, quư vị chẳng có cách nào học
giảng kinh; không có cách nào học giảng kinh th́ cùng nhau học
tập để tương lai làm hộ pháp. Chùa miếu
là một ngôi trường, người giảng kinh là giáo
viên, người chẳng giảng kinh làm chức viên (người
có chức trách), lo liệu các chuyện hành chánh hằng ngày.
Trong nhà trường có hai loại người là giáo viên và chức
viên. V́ thế, giáo viên nhất định phải hội đủ
hai điều kiện này!
Bất
luận là giáo viên hay chức viên, đức hạnh cơ
bản giống như nhau, chúng tôi gọi những đức
hạnh cơ bản ấy là bốn “căn cội”, tức
là Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện
Nghiệp, lại c̣n có giới luật, phải tŕ giới;
đấy là khoa mục chung phổ biến. Mấy người
học giảng kinh được thầy chọn ra, ngồi
ở hàng đầu tiên, đối diện thầy, họ
ngồi ngay hàng thứ nhất. Hàng thứ nhất phải
đảm nhiệm phức giảng. Nghe thầy giảng
buổi này xong, ngày mai quư vị phải nhắc lại lời
thầy giảng hôm trước một lần, không thêm vào
ư nghĩa của chính ḿnh. Thầy giảng như thế nào,
quư vị bèn giảng như thế đó. Thầy giảng
trật, quư vị cũng giảng trật, cũng chẳng
cần phải sửa cho đúng, hoàn toàn chiếu theo thầy,
cổ nhân dùng phương cách này. Trong quá khứ, chúng tôi học
giảng kinh tại Đài Trung theo phương pháp ấy.
Thầy Lư giảng kinh một lần cho chúng tôi nghe, chúng tôi
ghi nhớ, ngày mai chúng tôi phải giảng lại cho thầy
nghe, hoàn toàn giống hệt, chẳng thể thêm thắt, có
thiếu cũng chẳng sao, đă quên th́ có thể chẳng
giảng, nhưng chẳng được thêm vào! Thuở ấy,
tôi theo thầy, chiếm được một chút tiện
nghi, tôi có trí nhớ tốt, có đủ hai điều kiện
này, sức lư giải và trí nhớ rất tốt. Tôi nghe một
lượt, nói chung trong ṿng một tuần, do trí nhớ mạnh
mẽ, tôi có thể nhớ được chín mươi lăm
phần trăm, tôi có năng lực ấy. V́ thế, tôi được
thầy để mắt tới. Nếu không có năng lực
ấy, quư vị chẳng có cách nào học được! Mức
độ thấp nhất là quư vị có thể nhớ được
bảy mươi phần trăm th́ mới có điều
kiện học giảng kinh. Nếu chưa đạt được
bảy mươi phần trăm, chẳng có cách nào học
tập! Khi đó không có máy ghi âm, đúng là phải cậy vào
trí nhớ tốt; v́ thế, khá khó khăn! Tôi theo thầy Lư
mười năm, học năm bộ kinh, quyết định
tuân thủ quy củ làm môn hạ của thầy. Chúng tôi
luyện tập giảng kinh tại Đài Trung Liên Xă, c̣n một
nơi nữa là chùa Linh Sơn, bọn học tṛ chúng tôi luyện
tập giảng kinh ở hai nơi ấy. Phức giảng,
quyết định nghiêm ngặt tuân thủ quy củ. Tôi sang
Hương Cảng giảng kinh Lăng Nghiêm, tôi học bộ
kinh lớn ấy từ thầy Lư, Ngài giảng ba năm, tôi
cũng giảng ba năm, phức giảng. Đă phức
giảng kinh ấy một lượt, trong tâm nắm vững,
người Hương Cảng mời, tôi liền nhận
lời; nhưng giảng kinh ở Hương Cảng, tôi
có thể phát huy, cũng tham khảo chú giải các vị cổ
đại đức; đấy là Khế Cơ, căn cơ
Hương Cảng và Đài Loan khác nhau! V́ thế, trong học
tập và chính ḿnh vận dụng cũng khác nhau, học tập
là cơ sở, nhất định phải chiếu theo quy
củ, theo nề nếp, chớ nên sai lầm th́ căn cội
của quư vị mới được vun bồi sâu xa. [Học
giảng kinh theo lối phức giảng] huấn luyện nhẫn
nhục, chính ḿnh có kiến giải ǵ muốn giảng, nhất
định phải nhẫn, [thầy] chẳng chấp thuận,
[chẳng phải là thầy hẹp ḥi, không cho quư vị phát
biểu ư kiến, mà nhằm] bồi dưỡng công phu
định lực và ḷng khiêm hư cho quư vị. Sợ nhất
là ngạo mạn, nếu một người có mảy may
ngạo mạn th́ xong rồi, giống như trong Luận
Ngữ có nói, phu tử đă nêu tỷ dụ: “Như hữu Châu Công chi tài chi mỹ,
sử kiêu thả lận, kỳ dư tắc bất túc quán
dă” (Dẫu có tài hay khéo như Châu Công, nhưng nếu vừa
kiêu ngạo lại vừa keo kiệt th́ những điều
[tốt đẹp] khác chẳng đáng để xét tới
nữa). Quư vị muốn đạt được học
vấn ấy th́ điều ấy kỵ nhất, mảy
may ngạo mạn sẽ hủy sạch toàn bộ. Do vậy,
quư vị áp chế điều ǵ? Giằn ép tập khí ngạo
mạn. Đối với chuyện bồi dưỡng thế
hệ kế tiếp, cổ thánh tiên hiền dụng tâm vất
vả; do vậy, có thể biết là chẳng dễ dàng, thật
sự quan tâm quư vị, thật sự bồi dưỡng
quư vị.
Con
người hiện thời thiếu phước, nếu
dùng chuyện này bó buộc họ, họ sẽ cảm thấy
tự do bị xâm phạm, chẳng phục, xong luôn. Do vậy,
thầy có thể dạy hay không? Chẳng thể dạy! Chúng
tôi ở Đài Trung gồm hơn hai mươi học tṛ theo
thầy, trong số đó, chúng tôi biết, có ba bốn người
thầy hoàn toàn nghe theo họ, chính họ thích như thế
nào, thầy bèn chiều theo như thế ấy, chẳng hề
chỉ trích. Đối với những ai thật sự nghe
lời, thầy rất nghiêm khắc, có đánh, có chửi!
Chúng tôi cũng thấy sao mà thầy đối xử đặc
biệt tốt với những đồng học khác, luôn
cười hề hề? Tuy chúng tôi không nói ra, nhưng thầy
nh́n ra thái độ của chúng tôi, t́m tôi, cho biết v́ sao
thầy đối xử tốt đẹp đối với
những người ấy như thế? Họ không chịu
học, chẳng nghe lời. Kẻ chẳng nghe lời, không
chịu học, quư vị chỉ trích hắn, hắn chẳng
tiếp nhận, c̣n oán hận, cớ ǵ phải kết oán
với kẻ khác? Quư vị chịu học, tôi bèn dạy;
quư vị không chịu học, được thôi! Tùy ư, dự
thính! Chúng tôi mới liễu giải dụng tâm của thầy Lư! Đấy là chỗ chúng ta phải
học tập, quyết định chớ nên đắc tội
với người khác, điều ấy quan trọng lắm!
Chịu học là chuyện của hắn, không chịu học
cũng là chuyện của hắn, cần ǵ miễn cưỡng?
Trường học thời cổ có thể miễn cưỡng,
v́ sao? Cả xă hội đều yêu cầu như vậy.
Xă hội hiện thời là tự do, cởi mở, xă hội
chẳng đ̣i hỏi, chúng ta phải tùy thuận thói đời,
phải tùy thuận tâm t́nh thế gian, chớ nên không biết
điều này! Sau khi quư vị hiểu rơ, cuộc sống,
xử sự, đăi người, tiếp vật của quư
vị sẽ sống động, hoạt bát, chẳng khô
khan tí nào, thiện nhân ưa thích quư vị, mà kẻ bất
thiện cũng ưa thích quư vị. Đó gọi là học
Phật, đúng là “Bồ Tát sở
tại chi xứ, linh nhất thiết chúng sanh sanh hoan hỷ
tâm” (Bồ Tát ở chỗ nào đều làm cho hết
thảy chúng sanh sanh tâm hoan hỷ), thật đấy! Học
Phật mà c̣n có chấp trước, oán hận, lầm lẫn
quá đỗi, quư vị học Phật bằng cách nào? Đức
Phật dạy quư vị đoạn phiền năo, tăng
trưởng Bồ Đề. Chúng ta thấy ngài A Nan kết
tập pháp tạng, “như thị
pháp môn, ngă tùng Phật văn” (pháp môn như thế, ta
nghe từ đức Phật), nhất định phải
có ư nghĩa thâm mật trong ấy. Chúng ta đă học tập
th́ hăy vận dụng ngay trong cuộc sống.
Lại
đọc đoạn tiếp theo: “Thánh nhân vô ngă, nhi A Nan nhưng tự xưng vi Ngă giả,
bất hoại giả danh cố” (Thánh nhân vô ngă,
nhưng A Nan vẫn tự xưng là Ta, v́ chẳng hoại
giả danh). Thánh nhân tu hành đến tŕnh độ nào mới
là thánh nhân? Vừa nhập môn, Tu Đà Hoàn, trong Đại
Thừa th́ như kinh Hoa Nghiêm đă nói, địa vị
Sơ Tín Bồ Tát trong Thập Tín bèn vô ngă, là thánh nhân, chúng
ta thường gọi họ là Tiểu Thánh, họ thật
sự là thánh nhân. V́ sao? Đă đạt được vô
ngă. Tiểu thánh phá tám mươi tám phẩm Kiến Hoặc
trong tam giới. Trong khi dạy học, đức Phật đă
quy nạp chúng thành năm loại lớn cho thuận tiện.
Tám mươi tám [phẩm Kiến Hoặc] quá nhiều, quá
rườm rà, nên chia thành năm loại lớn. Thứ nhất
là Thân Kiến, Tiểu Thừa Sơ Quả chẳng c̣n chấp
trước thân là ngă, họ biết thân chẳng phải là
ngă, nên sẽ không chấp trước thân là ngă. Thân là ǵ?
Thân là ngă sở hữu (cái ta có), giống như quần áo.
Quần áo chẳng phải là ngă, mà là ngă sở hữu. Thân
chẳng phải ngă, mà là ngă sở hữu, thấy thân giống như y phục, cho nên gọi là
Tiểu Thánh. Người b́nh thường sẽ không
được, phàm nhân nhất định chấp trước
thân là ngă. Ngă là ǵ? Linh tánh là ngă, chẳng phải là linh hồn;
nhưng linh tánh và linh hồn là một, không hai. Linh hồn
là mê, linh tánh là giác ngộ; linh hồn đă giác ngộ gọi
là linh tánh, linh tánh mê th́ gọi là linh hồn. Linh hồn chẳng
thoát khỏi lục đạo, linh tánh ra khỏi lục
đạo, vượt thoát lục đạo luân hồi.
Tiểu thánh không có Thân Kiến, chẳng có Biên Kiến. Chẳng
có Biên Kiến là không có đối lập.
Những
năm qua, chúng tôi tham gia hội nghị ḥa b́nh của Liên Hiệp
Quốc, thảo luận chủ đề “hóa giải xung
đột”. Xung đột từ đâu sanh ra? Từ đối
lập sanh ra. Nếu không có đối lập, xung đột
do đâu mà có? Do vậy, quư vị phải hiểu: Trong Phật
môn không có đối lập, mâu thuẫn, hay xung đột.
Người khác đối lập, mâu thuẫn, xung đột
đối với ta, ta đối với người ấy
chẳng có, đừng nên đ̣i hỏi người khác đối
xử [tốt đẹp] với chính ḿnh, mà phải đ̣i
hỏi ta đối đăi người khác như thế nào
th́ quư vị mới có thể thành tựu trong Phật pháp. Đ̣i
hỏi người khác đối xử với ta như
thế nào, trật rồi! Đó gọi là ǵ? Cầu pháp ngoài
tâm, biến thành ngoại đạo. Phật pháp cầu
trong tự tâm, chẳng cầu ở bên ngoài, v́ sao? Tâm có thể
chuyển cảnh giới. Thí dụ như người khác
hủy báng, lăng nhục, hăm hại ta, kẻ chẳng học
Phật bèn nói: “Đó là kẻ oan gia đối đầu
của ta, ta phải trả thù hắn”, khởi lên ư niệm
ấy. Ư niệm ấy sai lầm, do chẳng biết Tự
và Tha là nhất thể. Quư vị báo thù lần này, oan oan tương
báo, luân hồi trong lục đạo chẳng xong, khổ
chẳng thể nói nổi, trật rồi! Người giác
ngộ sẽ như thế nào? Người giác ngộ biết
ta và kẻ khác là nhất thể, kẻ khác hủy báng, làm
nhục, tổn hại ta là v́ kẻ ấy mê, chẳng giác,
hăy nên tha thứ, chẳng có dấu vết ǵ, chẳng cần
nói là tha thứ, dấu vết ǵ cũng không có, vẫn hoan
hỷ đối với kẻ ấy. Kẻ ấy là ǵ? Bồ
Tát. Lại suy nghĩ sâu xa hơn, người ấy tạo
lợi ích cho ta, là ân nhân của ta. Kẻ ấy hủy báng
ta, coi thử ta có phải là chẳng khởi tâm động
niệm hay chăng? Ta chẳng khởi tâm động niệm
là ta được nâng cao. Người ấy giúp ta nâng
cao, ta đă vượt qua cửa ải khảo thí ấy.
Kẻ ấy hăm hại ta, ta chẳng có chút tâm oán hận nào.
Chư vị đọc kinh Đại Thừa thấy khi
Thích Ca Mâu Ni Phật tu Nhẫn Nhục Ba La Mật, Ngài được
gọi là Nhẫn Nhục tiên nhân, gặp vua Ca Lợi cắt
chặt thân thể, đó là chuyện thê thảm, đau đớn
dường ấy. Thích Ca Bồ Tát chẳng có mảy may tâm
oán hận nào, lại c̣n bảo vua Ca Lợi: “Trong tương lai, tôi thành Phật
sẽ độ bệ hạ đầu tiên, v́ sao? Báo ân bệ
hạ. V́ bệ hạ đối xử tử tế với
tôi như vậy, khảo nghiệm xem tôi có tâm nhẫn nhục
hay không, tôi có thể nhẫn”. Tốt nghiệp Nhẫn
Nhục Ba La Mật, ải cuối cùng đă tốt nghiệp
rồi. Chịu nổi khảo nghiệm, phàm những ai đến
khảo nghiệm đều là ân nhân. Tất cả hết
thảy các pháp thế gian và xuất thế gian, hễ có h́nh
tướng đều là hư vọng, quư vị chấp
trước chúng để làm ǵ? Sai lầm rồi! Thảy
đều buông xuống, ai cũng là người tốt, chuyện
ǵ cũng là chuyện tốt, lẽ nào quư vị chẳng
sanh tâm cảm ơn?
Thật
sự học Phật, đối với bất luận kẻ
nào cũng đều cảm ơn, kẻ ấy đối
xử tốt với ta, ta cảm kích kẻ ấy; kẻ ấy
đối xử xấu với ta, ta cũng cảm kích kẻ
ấy, đều là giúp ta nâng cao. Người đối xử
tốt với quư vị, chẳng tham luyến sự tốt
đẹp ấy, sẽ đoạn ǵ? Đoạn phiền
năo, đoạn tham luyến, tham ái. Kẻ xử tệ với
quư vị, [giúp quư vị] đoạn sân khuể. Ở chỗ
này, tùy thuộc quư vị buông xuống tham, sân, si bao nhiêu, thật
sự buông xuống, giống như chẳng có chuyện ấy.
Nếu quư vị hăy c̣n đôi chút oán hận, chẳng buông
xuống, trong thuận cảnh c̣n hoan hỷ đôi chút, chưa
buông xuống. Mừng, giận, buồn, vui, yêu, ghét, ham muốn
được gọi là thất t́nh, ngũ dục, đó
là phiền năo, phải rèn luyện trong hoàn cảnh, tức
hoàn cảnh nhân sự (quan hệ giữa con người với
nhau) và hoàn cảnh vật chất, luyện tới mức
chẳng sanh phiền năo, tâm b́nh, khí ḥa, [giống như]
trong tựa đề bản kinh này, tâm thanh tịnh hiện
tiền. Kẻ khác đối với quư vị tệ bạc
như thế ư? Đại ân, đại đức! Quư
vị c̣n muốn trả thù bậc đại ân đại
đức, xong luôn! Vẫn phải tiếp tục luân hồi
trong lục đạo! Khi nào sẽ có thể thoát ra? Khi nào
gặp những chướng nạn, gặp những khảo
đảo, tâm b́nh, khí ḥa, sẽ có thể thoát ra. V́ vậy,
người tu hành sống ở đâu? Vĩnh viễn sống
trong thế giới cảm ơn. Trong thế giới này,
chẳng ai đối với quư vị chẳng khởi tác
dụng, chẳng có ai không giúp đỡ, thành tựu quư vị,
tùy thuộc quư vị có hiểu hay không, có nhận biết
hay không?
Lần này tôi
sang thăm Ấn Ni (Indonesia), cũng gặp được
một xí nghiệp gia, nói chung kinh doanh khá lắm, mời tôi
dùng cơm, hỏi tôi một vấn đề: Có kẻ gạt
tiền ông ta, nói chung chẳng ít. Ông ta hỏi tôi: “Có nên kiện
kẻ ấy ra ṭa để lấy tiền lại hay không?”
Tôi nói: “Ông học Phật bao lâu?” “Hơn mười năm!”
Tôi nói: “Nếu ông thật sự học Phật, coi như
chuyện ấy đă xong! V́ sao? Số tiền ấy tuy
nhiều, nhưng ông có tiền, là một vị đại
tài chủ. Đối với ông mà nói th́ [món tiền ấy]
chẳng thấm vào đâu, cần ǵ phải so đo, cần
ǵ phải ghim trong ḷng? Ông cũng chẳng phải là thiếu
tiền xài, cũng lại chẳng thiếu món tiền ấy,
kẻ ấy dùng cũng giống như ông dùng, có ǵ khác
nhau?” Tôi coi thử ông ta nghe [nói như vậy] có hiểu hay
không. Nếu ông ta hiểu, sẽ là thật sự học Phật.
Nếu nghe mà chẳng hiểu, c̣n có oán khí, vẫn đi thưa
kiện, uổng công học Phật rồi, phí hoài mười
mấy năm học Phật. Đấy là ǵ? Trong khi bị
khảo nghiệm công phu, quư vị chẳng thể buông xuống
được! Đến cửa ải ấy, vẫn chưa
buông xuống được, vẫn là giẫm chân tại
chỗ, học Phật chẳng tiến một bước
nào!
V́ thế, nói
tới vô ngă, quư vị thấy điều kiện nhập
môn là vô ngă, không có đối lập, không có thành kiến. Tiếp
đó là Kiến Thủ Kiến và Giới Thủ Kiến, người
Hoa gọi hai thứ này là Thành Kiến. Không có Thành Kiến,
quư vị mới có thể tùy duyên. Điều cuối cùng
là không có tà kiến, tri kiến của quư vị rất chánh
đáng, chẳng thiên lệch, chẳng tà. Chẳng thiên lệch,
chẳng tà là do Phật pháp mà đạt được! Nương
theo giáo huấn của đức Phật để sống,
làm việc, đăi người, tiếp vật chẳng có
chuyện ǵ, vui sướng lắm, hạnh phúc lắm! Nếu
quư vị so đo với người khác, quư vị đáng
thương lắm, phiền năo vô lượng. Toàn là giả,
lục đạo luân hồi là giả, mười pháp giới
là giả, cớ ǵ làm chuyện giả? Coi giả là thật,
đó là mê hoặc, điên đảo, sai lầm mất rồi!
Hăy nên biết: Người thật sự tu hành là như cổ
đại đức đă nói “tá
giả tu chân” (nương vào cái giả để tu cái
thật), hết thảy đều là giả, ta rèn luyện
chính ḿnh trong cái giả, rèn luyện sao cho vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước của chính ḿnh đều
sạch sành sanh, luyện tới mức nhất niệm bất
sanh. Tâm thanh tịnh hiện tiền là A La Hán, tâm b́nh đẳng
hiện tiền, quư vị là Bồ Tát. Nếu chánh giác hiện
tiền sẽ thành Phật, [những tâm này] đều nằm
trong tựa đề kinh [Vô Lượng Thọ].
Chúng
ta đọc tiếp: “Thật
Tướng vô tướng”. Khi A Nan tự xưng là Ta, chẳng
hoại giả danh; bởi lẽ, qua lại với người
thế gian, mọi người đều nói Ngă, nếu ḿnh
nói chẳng phải là Ngă, mọi người sẽ nghĩ
đầu óc ta có vấn đề, cho nên ta cũng nói Ngă. Nhưng
ta nói Ngă, ta biết nó là giả, chẳng thật, trọn
chẳng chấp trước. Khi quư vị nói Ngă bèn thật
sự chấp trước, chẳng giống như [ngài A
Nan nói Ngă] ở đây. Do phải hằng thuận chúng sanh,
tùy hỷ công đức th́ mới có thể trao đổi
ư kiến, thực hiện công cuộc giáo học. Do vậy,
Phật, Bồ Tát ứng hóa trong thế gian này cũng nói
Ngă. Các Ngài hiểu Thật Tướng vô tướng,“cố phi đồng ư phàm
phu chi hữu Ngă” (chẳng giống như phàm phu có Ngă), phàm
phu thật sự chấp trước thân này là ta, Phật,
Bồ Tát chẳng vậy. “Thật
Tướng vô bất tướng” (Thật Tướng
chẳng phải là không có tướng), chẳng phải là
không có tướng v́ nó hiện huyễn tướng, “cố phi đồng ư Nhị
Thừa chi vô ngă” (nên chẳng giống Nhị Thừa vô
ngă), người Nhị Thừa là Thanh Văn, Duyên Giác, họ
thật sự chấp trước thân này chẳng phải
là ta, chấp trước thân vô ngă, chẳng có cách nào trao đổi
với người khác. V́ thế, Bồ Tát rất hoạt
bát, thông quyền đạt biến, bên trong không có ta, nhưng
bên ngoài quư vị nói ǵ ta cũng đều có thể tùy thuận,
ta chẳng tranh căi với quư vị. Quư vị nói thân này là
ta, không sai! Thân này là ta. Đấy là Bồ Tát, là Đại
Thừa.
Tiếp đó,
cụ giải thích: “A Nan tùy thuận
thế gian, giả danh vi Ngă, vô quai ư Đệ Nhất
Nghĩa Đế” (A Nan tùy thuận thế gian, giả
gọi là Ngă, chẳng trái nghịch Đệ Nhất Nghĩa
Đế). Đệ Nhất Nghĩa Đế là vô ngă, Đệ
Nhất Nghĩa Đế là tự tánh, trong tự tánh chẳng
chấp trước Ngă, chẳng có ư niệm về Ngă. “Hựu Quán Kinh Sớ vân, vô ngă tắc
vô văn” (Lại nữa, Quán Kinh nói: “Không có Ngă nên không
nghe”), không có Ngă th́ ai nghe? Ai nói, ai nghe? “Vô văn tắc hóa đạo tuyệt” (không có
nghe th́ sự giáo hóa chấm dứt), giáo học coi như
xong, chẳng thể thành lập! “Vị truyền hóa bất tuyệt, giả danh thuyết
Ngă” (v́ truyền thừa, giáo hóa bất tuyệt, nên giả
gọi là Ngă), “truyền” (傳) là lưu truyền giáo pháp, giáo
học của Thích Ca Mâu Ni Phật, giáo hóa chúng sanh, đời
đời truyền cho nhau, nhất định phải giả
danh nói là Ngă. Phật, Bồ Tát thị hiện trong thế
gian này, nếu chẳng thể hằng thuận chúng sanh, tùy
hỷ công đức, Phật giáo sẽ đoạn diệt.
Do vậy, tiếp xúc với người đời, nhất
định phải hằng thuận chúng sanh, họ nói Ngă,
ta cũng nói Ngă, chẳng có vấn đề, dễ dàng
trao đổi, thông quyền đạt biến, chớ nên
không biết những chuyện này. Bởi thế, Phật pháp
là sống động, chẳng khô khan chút nào!
Lại xem chữ
kế tiếp, tức Văn trong Ngă Văn. “Văn giả, nhĩ căn phát
nhĩ thức” (Văn là nhĩ căn sanh ra nhĩ thức),
Văn là từ nơi tai sanh khởi nhĩ thức nên người
ấy mới có thể nghe. Nhĩ Căn là nhục thân, nếu
trong ấy chẳng có nhĩ thức sẽ chẳng thể
nghe. Người đă chết, thần thức rời khỏi
thân, tuy có tai, nhưng chẳng thể nghe. V́ thế, Nghe chẳng
phải là tai nghe, mà là thức, tức là Nhĩ Thức. “Kim bất vân nhĩ văn, nhi ngôn
ngă văn” (nay chẳng nói tai nghe, mà nói ta nghe), Nghe quả
thật là do tai, nhưng không nói tai nghe mà nói ta nghe. “Cái dĩ Ngă tự thống thâu
chư căn thức đẳng” (v́ chữ Ngă bao gồm
trọn vẹn các căn thức). Mắt thấy, từ
nhăn căn phát sanh nhăn thức, quư vị mới có thể thấy.
Nếu lục căn chẳng phát sanh các thức, [lục căn]
sẽ chẳng có cách nào khởi tác dụng. Khi thần thức
rời khỏi thân thể, lục căn được gọi
là đă chết, chẳng khởi tác dụng. V́ vậy, dùng
một chữ Ngă là đă nói trọn sáu căn. “Dĩ tổng đại biệt,
dĩ ngă đại nhĩ, cố viết ngă văn. Dĩ
thượng như thị biểu tín thuận” (Dùng tổng
quát thay thế riêng biệt, dùng ngă thay cho Tai, nên nói là “ta
nghe”. Những điều như trên đây nhằm biểu
thị sự tín thuận), tín thuận thầy, tín thuận
giáo huấn của thầy. “Ngă
văn biểu sư thừa” (“ta nghe” biểu thị
sư thừa), những ǵ ta nói hoàn toàn là lời thầy đă
nói, ta vâng nhận những lời thầy dạy. “Ngă chi sở văn, giai Thế
Tôn kim khẩu sở tuyên, truyền thừa hữu tự,
quyết phi tha thuyết, hoặc vi ức tạo, dĩ chi
chứng tín” (những điều tôi nghe đều do miệng
vàng của đức Thế Tôn tuyên nói, truyền thừa
có chỗ khởi nguồn đích xác, quyết chẳng phải
do kẻ khác nói, hoặc là tôi bịa đặt, dùng điều
đó để chứng tín). Đây là nói tới sự truyền
thừa, có căn cứ. Chúng ta học Phật, vị thầy
bậc nhất là Thích Ca Mâu Ni Phật, đời đời
cũng không trái nghịch, quư vị nói tâm ấy có sâu đậm
lắm chăng? Hiện thời, rất nhiều học tṛ
sau khi tốt nghiệp bèn quên tuốt thầy, thậm chí đối
với cha mẹ, chính ḿnh trưởng thành bèn độc lập,
cha mẹ cũng chẳng cần tới! Tại Trung Quốc
c̣n đỡ hơn một chút, tại ngoại quốc thật
sự đều là như vậy. Trẻ nhỏ lớn lên,
thành tựu, rời khỏi gia đ́nh, có khi suốt đời
chẳng hề gặp lại cha mẹ. Chúng tôi ở Mỹ
rất nhiều năm, khoảng chừng mười
lăm năm, người Mỹ là như vậy. Thỉnh
thoảng, gặp dịp lễ tết, con cái gởi bưu
thiếp hỏi thăm một lần, [cha mẹ] nhận được
vui sướng khôn cùng, con cái vẫn chưa quên bẵng ta!
Khá nhiều người, con cái đă rời đi, suốt
đời chẳng có tin tức ǵ, đấy là xă hội
của họ. Tại Mỹ, mười sáu tuổi coi như
đă thành niên. Nếu [thiếu niên] mười sáu tuổi
bỏ nhà trốn đi, quư vị đừng t́m nó, có t́m cũng
vô ích. Quư vị t́m đến cảnh sát, cảnh sát nói: “Đă
mười sáu tuổi rồi mà quư vị c̣n phải lo cho
nó ư?” Nó có thể tự lập, cảnh sát cũng chẳng
t́m cho quư vị. V́ vậy, ư vị t́nh người chẳng
có, chẳng biết phụng dưỡng cha mẹ, chẳng
biết tôn trọng thầy.
...Gần
đây nhất cũng có những bạn bè từ trong nước
đến thăm tôi, chúng tôi cho họ xem gia phả của
chúng tôi. Gia phả là lịch sử gia đ́nh; v́ sao người
Hoa ái quốc như vậy? V́ sao yêu quê hương đến
thế? Nguyên nhân ở chỗ này! Người Hoa có từ
đường, kỷ niệm tổ tiên, đời đời
chẳng quên gốc, căm cội rất sâu. Người
Hoa có lịch sử gia đ́nh, truyền thừa từ
đời này sang đời kia, làm sao họ chẳng trân
quư cho được! Trong Cách Mạng Văn Hóa, từ
đường không c̣n, gia phả bị đốt, chúng tôi
ở hải ngoại chẳng làm ǵ được, hằng
ngày đọc nghĩ tới chuyện ấy, nên làm như
thế nào? Từ đường bị hủy cũng không
sao, gia phả có c̣n hay không? C̣n có ai giữ được
hay không? Chúng tôi là người ở hải ngoại quan tâm
chuyện này nhất. Hỏi ḍ khắp nơi, nhiều năm
chẳng có tin tức ǵ, hỏi người trong gia tộc
họ cũng không biết. Năm 2005, tôi đích thân về
quê hương, gia tộc chúng tôi vẫn được coi
là một gia tộc lớn, ở quê nhà hăy c̣n một vạn
năm ngàn người chưa rời khỏi. Anh em trong họ
rất nhiều, tôi hỏi mọi người gia phả có
c̣n hay không? Có ai biết hay không? Trong số ấy, có người
cho tôi biết hăy c̣n. Tôi hỏi: “Ở đâu?” Trong nhà người
ấy. “Cớ sao lại dời đến nhà anh?” Khi từ
đường bị hủy, người ấy lén lút đem
gia phả giấu đi, giấu trong nhà không ai biết, măi
cho đến hôm tôi hỏi người ấy, người
nhà của ông ta cũng chẳng biết. Ông ta bỏ bộ
sách ấy trong một chiếc rương nhỏ, xếp
dưới gầm giường, không ai biết. Tôi nói bây
giờ ông có thể lấy ra, không sao đâu, hăy lấy ra
cho chúng tôi xem. [Gia phả] gồm ba mươi bảy quyển
in theo lối khâu gáy bằng chỉ, chúng tôi như có được
món quư báu nhất, mất đi bộ sách ấy th́ sẽ
chẳng c̣n cội rễ ǵ nữa! Do vậy, tôi yêu cầu
mọi người, cho chúng tôi in ra ba trăm bộ, một
trăm bộ gởi đến thư viện các trường
đại học nổi tiếng ở hải ngoại, họ
sẽ bảo tồn, chẳng thể bị mất đi.
Mọi người đồng ư, làm chuyện ấy thành
công.
....Truyền
thừa Phật pháp, từ Thích Ca Mâu Ni Phật cho đến
các vị thầy trong mỗi đời, lịch đại
tổ sư đại đức đều có truyền
thừa, đều biết do đâu mà có, chẳng phải
do chính ḿnh tùy tiện tưởng tượng, chẳng phải
là như vậy, thật sự có chứng cứ, đó gọi
là Chứng Tín. Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng
ta học tập tới đây.
Tập 84
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin mời ngồi
xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh
Giải, trang chín mươi ba, ḍng thứ hai, xem từ chữ
“nhất thời”.
“Nhất thời giả, Thời
Thành Tựu dă. Cái thời vô thật pháp, trường
đoản tùy tâm, diên xúc đồng thời, tam kỳ, nhất
niệm. Như Sớ Sao viết: Hoặc thuyết giả
đắc đà-la-ni, nhất sát-na khoảnh, nhất tự
chi trung, thuyết nhất thiết
pháp môn, hoặc thính giả đắc tịnh nhĩ
căn, ư nhất sát-na, văn nhất tự thời,
ư dư nhất thiết tất vô chướng ngại;
hoặc thuyết giả thời thiểu, thính giả thời
đa, hoặc thuyết giả thời đa, thính giả
thời thiểu, hoặc thuyết giả thần lực diên
xúc tùy nghi, thính giả căn khí lợi độn bất nhất”
(“Nhất thời” là Thời Thành Tựu. Do Thời chẳng
phải là thật pháp, dài hay ngắn tùy tâm, kéo dài hay rút gọn
cùng một lúc, ba A-tăng-kỳ trong một niệm. Như
Sớ Sao đă nói: “Hoặc kẻ nói đắc
đà-la-ni, trong khoảng một sát-na, trong một chữ,
nói hết thảy pháp môn. Hoặc người nghe đắc
nhĩ căn thanh tịnh, trong một sát-na, lúc nghe một
chữ, đối với những thứ khác đều
chẳng chướng ngại. Hoặc người nói trong
một thời gian ngắn, người nghe [cảm thấy]
thời gian lâu dài. Hoặc kẻ nói lâu lắc, người
nghe thành chốc lát. Hoặc người nói dùng thần lực
kéo dài hay rút ngắn tùy nghi, người nghe là căn khí lợi
hay độn chẳng phải chỉ một loại”). Chúng
ta đọc tới đây. Đây là nói về Thời Thành
Tựu. Đức Phật nói kinh vào lúc nào, điều này
cũng do đức Thế Tôn dạy ngài A Nan. Sáu thứ
thành tựu do đức Phật dạy, sau “như thị ngă văn” là “nhất thời”, Phật ở
nơi nào. Chẳng ghi chép năm, tháng, ngày, chỉ nói là “nhất thời”. Lúc chúng tôi mới
học Phật, vừa mới nhập môn, đối với
chuyện này, chúng tôi rất hoài nghi. Cổ nhân Trung Quốc
luôn ghi chép năm, tháng, ngày, thời cổ dùng Can Chi để
ghi chép. V́ sao đối với kinh Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật
giảng kinh bốn mươi chín năm, v́ sao chẳng chép
thời gian, chỉ nói mơ hồ là “nhất thời?” Nói chung là chẳng rơ rệt! Trải
qua bao nhiêu thời gian, nghiên cứu kinh tạng đôi chút,
mới thật sự hiểu rơ, nói “nhất thời” là thật, nói ra năm, tháng, ngày
là giả, chẳng thật, “nhất
thời” là thật. Tiếp đó, giải thích căn cứ
theo kinh Đại Thừa, đức Phật thường
nói Thời chẳng phải là thật pháp. Thời gian, đối
lập với thời gian là không gian, thời gian và không
gian đều chẳng thật. “Thật”
là chân thật, [thời gian và không gian] chẳng phải là
thật. “Trường đoản
tùy tâm”: Quư vị thấy thời gian dài hay ngắn, cảnh
chuyển biến theo tâm. Không chỉ là thời gian được
cảm nhận chẳng giống nhau theo ư niệm sai khác của
chúng ta, mà không gian cũng giống như thế. Không gian lớn
hay nhỏ tùy tâm, dần dần nhập cảnh giới Đại
Thừa bèn hiểu rơ [điều ấy]. Không chỉ
như thế, trong kinh Phật, đúng là chúng ta thấy “diên xúc đồng thời”, “diên” (延) là một thời gian dài, “xúc” (促) là thời gian ngắn ngủi. [Ngắn
là] một sát-na, dài là vô lượng kiếp, vô lượng
kiếp và một sát-na đồng thời. Cảnh giới
ấy chẳng thể nghĩ bàn, cảnh giới ấy là
chân thật. “Tam kỳ nhất
niệm”: Ba đại A-tăng-kỳ kiếp là một
thời gian dài, nhất niệm là thời gian ngắn ngủi.
Ba đại A-tăng-kỳ kiếp có thể rút gọn
thành nhất niệm, nhất niệm có thể kéo dài thành
ba đại A-tăng-kỳ kiếp, đó là thời gian rất
ư là dài!
Đức
Phật nói “nhất thời”
là chính xác, đối với người học Phật chúng
ta mà nói, nói “nhất thời”
đă ban cho chúng ta hy vọng chân thật. Chúng ta nghĩ thuở
ấy, đức Phật giảng kinh này tại “Vương Xá thành, Kỳ Xà Quật
sơn”, tức là Linh Sơn, cùng một địa điểm
với kinh Pháp Hoa. Chúng ta có thể tham dự hội ấy
hay không? Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, chúng ta có thể đích
thân đến nghe hay không? Có thể! Trong Phật giáo sử
Trung Quốc có chép: Khi Trí Giả đại sư đọc
kinh Pháp Hoa, nhập Định, trong Định đại
sư thấy đức Thế Tôn đang giảng kinh Pháp
Hoa, Ngài c̣n ngồi bên cạnh nghe một buổi, nghe một
lần. Sau khi xuất định bảo với mọi người,
Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh Pháp Hoa tại Linh Sơn, pháp
hội c̣n chưa giải tán, Ngài đích thân tham dự một
buổi. Trong Định đột phá chiều không gian và
thời gian, Trí Giả đại sư sau Thích Ca Mâu Ni Phật
hơn một ngàn năm, mà Ngài có thể tiến nhập đạo
tràng hơn một ngàn năm trước, có thể đích
thân nghe đức Phật giảng kinh. Không chỉ có thể
trở lại quá khứ, mà cũng có thể vượt đến
tương lai. Thích Ca Mâu Ni Phật có thấy thời đại
hiện tại của chúng ta hay không? Thấy được!
Nếu chẳng thấy, cớ sao Ngài có thể nói đoạn
kinh văn Ngũ Thiêu, Ngũ Thống? Đoạn ấy miêu
tả ǵ vậy? Xă hội hiện thời của chúng ta,
Ngài đă thấy! Không chỉ thấy hiện tại, mà c̣n
thấy tới lúc pháp diệt tận. Đức Phật có
nói một bộ kinh là Pháp Diệt Tận Kinh, đấy là
thời đại nào? Pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật
là một vạn hai ngàn năm, lúc ấy là một vạn
hai ngàn năm [sau khi đức Phật diệt độ],
đức Phật đă nói rơ trạng huống lúc ấy. Chẳng
phải là tiên đoán, mà là chính mắt thấy, thấy chính
xác.
Khi chúng tôi c̣n trẻ, thấy rất nhiều
dự ngôn của Trung Quốc và ngoại quốc. Tôi từng
hỏi thầy Lư, Thôi Bối Đồ[3], Thiêu Bính Ca[4] của Trung Quốc có đúng hay không? Thầy
bảo tôi: Trong các dự ngôn của cổ nhân Trung Quốc,
dự ngôn của thiền sư Hoàng Bá đáng tin, v́ sao? Ngài
thấy trong Định. C̣n những thứ như Thôi Bối
Đồ không nhất định hoàn toàn chuẩn xác, v́ tác
giả dựa vào lư số, toán học [để suy đoán].
Kinh Dịch của Trung Quốc là một cuốn sách cao thâm
về toán học, từ toán học có thể suy đoán, toán
học là mẹ của khoa học. Nhưng chúng đúng là “sai chỉ hào ly, lạc đi
ngàn dặm”, chẳng thể hoàn toàn chính xác, trong ấy
vẫn c̣n có sai lầm. C̣n có những tin tức do bọn đồng
cốt truyền lại, tùy thuộc [những linh quỷ dựa
xác bọn đồng cốt] thuộc đẳng cấp
nào. Tin tức do đồng cốt [có quỷ thần] cao cấp
[dựa thân] truyền lại thường chính xác, nhưng
[tin tức của bọn đồng cốt thuộc] tầng
lớp rất thấp sẽ chẳng chính xác. Chúng ta biết
quỷ đạo có Ngũ Thông, do quả báo mà có, chẳng
phải do tu được, do quả báo mà đạt được.
Tầng lớp thông linh cũng khác nhau, và [tùy thuộc] tâm
thái mỗi cá nhân khác nhau. Nay chúng ta hiểu điều này,
tâm thái chủ tể hết thảy: Tâm thái tốt, tầng
lớp của quỷ bèn cao, tâm thái bất thiện, tầng
lớp của quỷ cũng rất thấp; nhưng chúng đều
có năng lực vượt qua thời gian và không gian, nhưng
[quỷ thuộc] tầng lớp thấp
th́ mức độ vượt qua chẳng lớn. Những
chuyện giống như vậy, trong đời này, đặc
biệt là trong thời đại này, chúng ta thường
gặp. V́ vậy, chính ḿnh chớ nên không hiểu rơ. Hễ
gặp bèn chẳng thấy nó là chuyện hiếm hoi, kỳ
lạ ǵ, đó là một hiện tượng b́nh thường
trong vũ trụ. Chúng ta nhớ một câu nói của đức
Thế Tôn: “Phàm những ǵ có
h́nh tướng đều là hư vọng”, chớ nên
ghim trong ḷng, hễ tiếp xúc th́ có thể tham khảo, nhất
định phải dùng định huệ của chính ḿnh
để ứng phó, chớ nên dùng t́nh thức. Dùng t́nh thức
để ứng phó sẽ thường bị thua thiệt,
bị lừa. Phải dùng định huệ, tâm thanh tịnh
sẽ chẳng bị chúng ảnh hưởng, dùng trí huệ
để quan sát, chúng ta sẽ biết ứng phó tin tức
nhận được như thế nào, đó là chính xác. V́
vậy, phải nhớ Phật pháp là “phá mê khai ngộ”, chẳng mê tín!
Chúng ta thấy
ở đây, Hoàng lăo cư sĩ nói với chúng ta, trước
tiên là những điều kinh nói. “Như Sớ Sao viết” (như Sớ Sao nói), Sớ
Sao là A Di Đà Kinh Sớ Sao do Liên Tŕ đại sư trước
tác. Trong Sớ Sao, có mấy câu giảng về “nhất thời” theo cách như
vậy. “Thuyết giả đắc
đà-la-ni”, “đà-la-ni”
là tiếng Phạn, dịch sang nghĩa tiếng Hán là Tổng
Tŕ, bao gồm hết thảy các pháp, tŕ hết thảy các nghĩa.
Trong Phật học, danh từ này được dùng rất
phổ biến, đấy cũng là đắc định
khai ngộ. Người học Phật nhất định
phải coi trọng Tam Học Giới - Định - Huệ,
không thể coi thường. Nếu Giới chẳng trọng
yếu như vậy, cần ǵ Thích Ca Mâu Ni Phật phải coi trọng dường ấy,
cớ ǵ phải buốt ḷng rát miệng khuyên dạy ngần
ấy? Nó đúng là rất trọng yếu, là cội
rễ! Ngày nay, chúng ta học Phật chẳng thể thụ
dụng là do nguyên nhân ǵ? Chúng ta bỏ sót căn bản. Các đồng
học tại gia học Phật sơ sót Thập Thiện
Nghiệp Đạo. Thập Thiện Nghiệp Đạo
là đại pháp căn bản để tu học Phật
pháp. Quư vị thấy: Trong kinh Thập Thiện Nghiệp
Đạo, đức Phật đă giảng rất rơ
ràng, nói từ pháp nhân thiên. Pháp nhân thiên là ǵ? Trong lục
đạo, quư vị đạt được phương
pháp của nhân đạo và thiên đạo, đó là ǵ vậy?
Thập Thiện Nghiệp Đạo. Lên cao hơn là nói tới
Thanh Văn Bồ Đề, Duyên Giác Bồ Đề, cho đến
Vô Thượng Bồ Đề. Nói cách khác, từ trong lục
đạo, quư vị đạt được nhân đạo,
thiên đạo, măi cho đến khi chứng đắc Phật
quả rốt ráo viên măn, thảy đều dựa vào Thập
Thiện Nghiệp Đạo; há chẳng phải là trọng
yếu ư? Giống như nay chúng ta xây một cao ốc,
xây cao ốc cao đến mấy chục tầng, hay một
trăm tầng, Thập Thiện Nghiệp Đạo là ǵ?
Là nền móng, là nền tảng. Quư vị thiếu cơ sở,
dù xây hai ba tầng c̣n chẳng thành, làm sao có thể xây cao ốc
một trăm tầng? Càng lên cao, quư vị mới hiểu
căn cơ càng bền vững. Hiện thời, chúng ta thấy
chẳng ai làm được Thập Thiện; v́ vậy, tôi
thường nghĩ v́ sao người thuở trước
làm được, mà nay chúng ta chẳng làm được?
Tôi nghĩ thật lâu rồi mới vỡ lẽ: Người
thuở trước có thể làm được là do giáo dục
gia đ́nh tốt đẹp! Giáo dục gia đ́nh: Trẻ
nhỏ vừa sanh ra đă được cha mẹ dạy
dỗ, cho nên nó thật sự đặt vững căn cơ.
Sau này, khi đọc kinh, qua kinh điển chúng tôi thấy
được điều này.
Từ giữa
đời Đường trở đi, Phật giáo Trung
Quốc chẳng dùng Tiểu Thừa nữa, Tiểu Thừa
cũng lấy Thập Thiện Nghiệp Đạo làm cơ
sở. Trung Quốc không dùng Tiểu Thừa, mà chọn Nho
và Đạo làm cơ sở cho Đại Thừa, trải
qua hơn một ngàn bảy trăm năm, đă thí nghiệm
thành công. Quư vị thấy từ giữa đời Đường
cho đến đầu thời Dân Quốc, trong mỗi
triều đại, người tu hành thật sự có
khai ngộ, chứng quả, đắc công phu định
lực rất nhiều. Tám vạn bốn ngàn pháp môn, pháp
môn nào cũng đều có thể giúp quư vị đắc tam-muội.
Đắc tam-muội là đắc Thiền Định, niệm
Phật đến mức tâm thanh tịnh hiện tiền
là Niệm Phật tam-muội thành tựu. Chúng tôi mới dần
dần hiểu rơ: Chúng ta phải học tập bổ sung,
bù đắp bằng Đệ Tử Quy của Nho gia và
Thái Thượng Cảm Ứng Thiên của Đạo gia,
có hai cơ sở này th́ Thập Thiện Nghiệp Đạo,
Tam Quy, Ngũ Giới sẽ dễ dàng, thật sự đạt
được, Tam Quy là thật, chẳng giả. Hiện
thời, Tam Quy là giả, chẳng thật. Quư vị thấy
Tam Quy là “quy y Phật, quy y Pháp,
quy y Tăng”. Đọc Lục Tổ Đàn Kinh, chúng ta
liền hoảng nhiên đại ngộ. Lục Tổ Huệ
Năng là người đời Đường, nhằm
thời đại Vơ Tắc Thiên. Thuở ấy, lăo nhân gia
truyền quy y, chẳng đọc “quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng”, Ngài chẳng đọc
như thế, mà đọc như thế nào? “Quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh”.
V́ sao Ngài đọc theo cách ấy? Chúng ta hăy suy nghĩ cặn
kẽ! Khẳng định là Phật pháp truyền tới
Trung Quốc đă hơn một ngàn năm, truyền đă
lâu như thế, cho nên xuất hiện rất nhiều sai
lệch, lầm lẫn. Mọi người hễ nghe nói Phật,
Pháp, Tăng, chắc là nghe nói đến Phật bèn nghĩ
tới tượng Phật, nghe nói “quy y Pháp” bèn nghĩ tới
kinh sách, “quy y Tăng” bèn nghĩ tới người xuất
gia. Sai rồi! Đó chẳng phải là ư nghĩa thật sự
của Tam Quy, ư nghĩa thật sự của Tam Quy là Giác,
Chánh, Tịnh. V́ thế, Tổ truyền quy y bèn nói “quy y Giác, quy y Chánh, quy y Tịnh”
rồi mới giải thích “Phật
là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh”. Ngài giải thích cho
chúng ta, vừa giải thích như thế, chúng ta bèn hiểu
rơ.
Quy y Phật
nghĩa là ǵ? Giác chứ chẳng mê. Chúng ta từ mê hoặc,
điên đảo, quay về nương vào tự tánh giác,
đó là quy y Phật thật sự. [Phật trong Tam Quy] là tự
tánh Phật của quư vị, chẳng phải là Phật ở
bên ngoài. Tượng Phật ở bên ngoài là ǵ? Nhằm nhắc
nhở quư vị, Phật tượng trưng điều ǵ?
Phật tượng trưng tự tánh giác. Quư vị thật
sự quy y, chẳng phải là quy y bên ngoài, mà là từ mê hoặc,
điên đảo quay lại, ta phải giác ngộ, chẳng
c̣n mê hoặc nữa. Quy y Pháp, chánh chứ không tà, ta từ
tà tri, tà kiến, tà hạnh quay lại, nương theo chánh
tri, chánh kiến, chánh hạnh. Tiêu chuẩn này thuộc về
giới luật, nền tảng của giới luật là
Đệ Tử Quy. Đệ Tử Quy dạy quư vị chánh
tri, chánh kiến, chánh niệm, chánh hạnh, [những điều
ấy] đều ở trong tự tánh. Thái Thượng Cảm
Ứng Thiên gồm một trăm chín mươi lăm
điều, thiện ác báo ứng cũng là tự tánh. Nói chung,
Phật pháp từ đầu tới cuối, từ sơ
học cho đến địa vị Như Lai, chẳng rời
khỏi tự tánh. Rời khỏi tự tánh sẽ là ngoại
đạo, cầu Phật ngoài tâm, đấy là ngoại
đạo. Phật là ǵ? Phật là tự tánh của quư vị,
nhất định phải biết điều này. Quy y Tăng,
người xuất gia đại diện Tăng. Thấy
người xuất gia bèn ngay lập tức cảnh tỉnh:
Ta hăy nên tịnh, đừng nhiễm. Ta từ ô nhiễm
quay lại, nương vào tự tánh tịnh. Quư vị thấy
Huệ Năng đại sư khai ngộ, câu đầu
tiên Ngài nói: “Nào ngờ tự
tánh vốn tự thanh tịnh”. Quy y “vốn tự thanh
tịnh” là quy y Tăng chân thật, chẳng liên can tới cảnh
giới bên ngoài. V́ thế, Phật pháp được gọi
là “nội học”, hoàn toàn tương
ứng với tự tánh. Tự tánh tịnh, tự tánh
chánh, tự tánh giác, quả thật đă được nói
trong tựa đề bộ kinh của chúng ta “thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”.
Tự tánh
tịnh, thanh tịnh là Tăng Bảo, b́nh đẳng là Pháp
Bảo, giác là Phật Bảo. Tam Quy Y là ǵ? Chính là năm chữ
“thanh tịnh, b́nh đẳng,
giác”, đó là đúng. Khởi tâm động niệm,
ngôn ngữ, tạo tác tương ứng với thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác, quư vị thật sự quy y. Thầy lấy
Tam Quy, Tam Quy là Phật pháp, bất luận Đại Thừa
hay Tiểu Thừa, Tông Môn hay Giáo Hạ, Hiển giáo hay Mật
giáo, làm nguyên tắc chỉ đạo tu học tối cao,
từ khởi tâm động niệm cho đến ngôn ngữ,
tạo tác, chẳng thể rời khỏi thanh tịnh,
b́nh đẳng, giác, đấy là nguyên tắc chỉ đạo
tối cao. Quư vị thấy: Vừa vào cửa Phật,
trước hết liền truyền dạy nguyên tắc
này cho quư vị; từ nay trở đi, quư vị nương
theo phương hướng và mục tiêu ấy để
tu học th́ mới có thể siêu phàm nhập thánh. Đấy
là Tam Quy Y thật sự. Nay chúng ta thọ Tam Quy, thọ
xong th́ sao? Vẫn mê chứ chẳng giác, vẫn nhiễm chứ
chẳng tịnh, vẫn tà chứ chẳng chánh, chẳng
khác ǵ chưa thọ, chẳng thay đổi ǵ hết! Tam
Quy kiểu đó là giả, chẳng thật! Nếu thật
sự Tam Quy, trong tâm quư vị chẳng rời khỏi giác,
chánh, tịnh. Trong kinh, đức Phật bảo chúng ta,
ngày đêm có ba mươi sáu vị thần hộ pháp bảo
vệ quư vị; đối với mỗi điều trong
Ngũ Giới đều có năm vị thần hộ giới.
Ngũ Giới quư vị đều làm được th́ có
hai mươi lăm vị thần hộ giới bảo vệ
quư vị. Quư vị sẽ không bị tà mị dựa thân,
chẳng bị là do thần hộ pháp và thần hộ giới
của quư vị rất nhiều. Học Phật mà vẫn
c̣n có hiện tượng bị ma quỷ dựa thân, cho thấy
quư vị chưa làm được [Ngũ Giới], thần
hộ giới lẫn thần hộ pháp đều lánh xa,
bỏ đi, chẳng hộ tŕ quư vị. Nhất định
phải hiểu đạo lư này.
Chúng ta thọ
Tam Quy hoặc thọ giới, có cần phải đến
giới đàn tiếp nhận theo nghi thức [truyền giới]
hay không? Thưa quư vị, nghi thức không quan trọng. Thuở
tôi mới học Phật, Chương Gia đại sư
bảo tôi: “Phật pháp trọng
thực chất, chẳng trọng h́nh thức”, thực
chất là ǵ? Quư vị thật sự phát tâm muốn học,
sẽ được! “Tôi thật sự phát tâm muốn học
Phật, tôi đọc kinh điển thấy viết về
Tam Quy Y, tôi thật sự muốn học, nghiêm túc học tập,
tôi hiểu rơ”, tức là quư vị thật sự thọ. Thấy
Ngũ Giới dạy “chẳng sát sanh”, chính ḿnh bèn phát nguyện,
suốt đời này ta trọn chẳng tổn thương,
gây hại hết thảy chúng sanh, quư vị đạt được
giới điều này! Chẳng trộm cắp, ta phát tâm
suốt đời này trọn chẳng chiếm chút tiện
nghi nào của người khác, quư vị đạt được
giới điều này. Tại giới đàn, tiếp nhận
những nghi thức, nhưng chẳng làm được th́
vẫn vô dụng! Đấy chẳng phải là thật.
Những vị thần hộ pháp chỉ nhận thật,
chẳng nhận giả. Hễ giả, họ vừa nh́n bèn
cười kh́, xong chuyện! C̣n thật th́ tuy chẳng trải
qua những nghi thức tại giới đàn, họ vẫn
một mực thủ hộ quư vị. Đạo lư này là sự
thật, chúng ta phải hiểu rơ ràng. Dường như vào
năm 1999, tôi sang Tân Gia Ba, giảng kinh, dạy học tại
Cư Sĩ Lâm, quen biết Tổng Thống hiện thời
là tiên sinh Nạp Đan (Sellapan Rama Nathan), khi ấy, ông ta mới
vừa từ Mỹ trở về. Ông ta là đại sứ
của Tân Gia Ba tại Mỹ, vừa mới trở về.
Chúng tôi dùng cơm với nhau, ngồi với nhau, ông ta cho
biết: Ông ta là người Ấn Độ, là tín đồ
Ấn Độ giáo. Tầng ba của [ṭa cao ốc này] là Ấn
Độ giáo. Ông ta nói: “Tôi vô
cùng ưa thích Phật giáo, Phật giáo trọng thực chất,
không trọng h́nh thức”. Ông ta nói một câu như thế,
khi ấy, tôi nghe xong, hết sức kinh ngạc. Trong quá khứ,
tôi chỉ nghe Chương Gia đại sư nói câu ấy,
chưa nghe người thứ hai nào nói, không ngờ ông ta có
thể nói ra câu ấy. Đấy là bậc thông hiểu, chẳng
phải là kẻ lơ mơ. Về sau, ông ta trở thành Tổng
Thống Tân Gia Ba, măi cho đến bây giờ vẫn là Tổng
Thống Tân Gia Ba. Khi tôi ở Tân Gia Ba, mỗi năm tối
thiểu có đôi ba lần gặp gỡ; v́ thế, chúng tôi
cũng rất thân thuộc!
Đắc
đà-la-ni chính là đắc định, khai ngộ, người
ấy có năng lực trong khoảng một sát-na, thời
gian ấy rất ngắn, vài giây, trong một chữ, nói hết
thảy các pháp môn. Hết thảy các pháp do Thích Ca Mâu Ni Phật
đă nói trong bốn mươi chín năm, có thể tŕnh bày
trọn hết trong một giây, trong một chữ ư? Có
thể! Nếu có người biết nghe, đó là ǵ? Là thông
tin! Quư vị thấy hiện thời một bộ Đại
Tạng Kinh, chẳng ít, đóng thành sách b́a cứng gồm
một trăm hai mươi tập, có thể rút gọn lại
trong một con chip, đúng là nhỏ như một cái móng
tay, trong con chip ấy là toàn bộ Đại Tạng Kinh. Cổ
nhân cũng có một phương pháp xảo diệu, kinh
Hoa Nghiêm rất dài, thật đấy, chẳng giả; tôi
chẳng biết ở Đại Lục hiện thời có
[c̣n làm như vậy] hay không. Cổ nhân đúc bộ kinh Hoa
Nghiêm lên chuông, mặt ngoài, bên trong hồng chung đều là
kinh văn, chuông vừa gơ, toàn bộ kinh Hoa Nghiêm [được
xướng lên]. Quư vị thấy đó. Trong một niệm
sẽ là toàn bộ kinh Hoa Nghiêm. Người biết nghe th́
ngay trong một niệm liền hiểu rơ toàn bộ kinh Hoa
Nghiêm, được thụ dụng. Cũng giống như
vậy, ở Đại Lục, kinh Pháp Hoa, kinh Vô Lượng
Thọ, kinh Kim Cang, kinh Di Đà được đúc trên
chuông rất nhiều, họ có khuôn mẫu để đúc
trên chuông. Đấy là “trong một
chữ, chứa đựng hết thảy các pháp môn”. Kinh
Hoa Nghiêm nói: “Một tức hết
thảy, hết thảy tức một” chính là ư nghĩa
này.
“Hoặc thính giả đắc tịnh
nhĩ căn, ư nhất sát-na, văn nhất tự thời,
ư dư nhất thiết tất vô chướng ngại”
(Hoặc là người nghe đắc nhĩ căn thanh tịnh,
trong một sát-na, khi nghe một chữ, đối với
hết thảy các thứ khác đều không chướng
ngại). Đây là nói người nghe khai ngộ. Người
ấy nghe một chữ, hay nghe một câu bèn hiểu rơ toàn
bộ, đấy là ǵ? Đắc tịnh nhĩ căn. Chúng
tôi nghĩ đến trường hợp Lục Tổ Huệ
Năng đại sư, Ngài ở trong phương trượng
thất của Ngũ Tổ, Ngũ Tổ giảng kinh Kim
Cang cho Lục Tổ, chúng tôi phỏng đoán thời gian ước
chừng một giờ, tối đa là hai giờ, không thể
lâu hơn hai tiếng đồng hồ. Ngũ Tổ giảng
đại ư kinh Kim Cang, giảng đến câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm” (hăy nên chẳng trụ vào đâu mà sanh tâm), Lục Tổ
bèn hoát nhiên đại ngộ, thưa bày điều tâm
đắc gồm năm câu: “Nào
ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh; nào ngờ tự
tánh, vốn chẳng sanh diệt; nào ngờ tự tánh, vốn tự trọn đủ”. Những
câu ấy tuyệt diệu, trong tự tánh chẳng thiếu
thứ ǵ! Như trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă
nói, trí huệ và đức tướng chẳng thiếu,
thảy đều trọn đủ. Thảy đều
trọn đủ là đầy đủ y báo và chánh báo trang
nghiêm trong mười pháp giới, đều thuộc trong tự
tánh, chẳng ĺa khỏi tự tánh. “Nào ngờ tự tánh, vốn chẳng lay động”,
vốn chẳng lay động là tự tánh vốn định.
Cái tâm của chúng ta hiện thời là niệm này diệt,
tức niệm trước diệt, niệm sau sanh, đấy
chẳng phải là tự tánh, mà là A Lại Da. Tự tánh là
chân tâm, A Lại Da là vọng tâm, vọng tâm là động,
chân tâm là định, chẳng dấy động. Câu cuối
cùng: “Nào ngờ tự tánh, có thể
sanh ra muôn pháp”. Nó hiển lộ, có thể sanh ra vạn
pháp. Hễ nó ẩn th́ hết thảy các pháp đều chẳng
thấy.
Tự tánh chẳng phải
là sắc pháp, chẳng phải là vật chất, mà cũng
không phải là tinh thần. Trong kinh miêu tả tự tánh bằng
từ ngữ Thường Tịch Quang. Thường là
vĩnh hằng, Tịch là tịch tĩnh, trong ấy thanh
tịnh, chẳng bị ô nhiễm, không có ư nghĩa sanh diệt,
nó là quang minh, cho nên c̣n gọi là Đại Quang Minh Tạng.
Đấy là sự miêu tả của kinh điển đối
với tự tánh, tự tánh ở nơi đâu? Không chỗ
nào chẳng tồn tại, không lúc nào chẳng tồn tại.
Thời gian và không gian đều do nó biến hiện. Đấy
là Huệ Năng đại sư đắc tịnh nhĩ
căn, trong một thời gian rất ngắn, nghe mấy
câu, toàn bộ đều chẳng chướng ngại,
đều hiểu rơ, thông đạt rành rẽ hết thảy
các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă nói trong bốn mươi
chín năm, chẳng hiểu lầm tí nào! Người nói đắc
đà-la-ni, nghe đắc tịnh nhĩ căn, giáo học
quá thuận tiện, quá dễ dàng! Dưới ṭa của Huệ
Năng đại sư quả thật có mấy người
[giống như vậy], khai ngộ trong hội của Ngài
tổng cộng bốn mươi ba người, trong ấy
có vài người có t́nh h́nh như thế. Đặc biệt
rơ rệt là Vĩnh Gia đại sư, tác giả của bài
Chứng Đạo Ca. Quư vị thấy Vĩnh Gia đại
sư là một trường hợp như vậy, khai ngộ
nhờ một câu nói của Lục Tổ, khai ngộ rồi
Ngài muốn rời đi. [Lục Tổ hỏi]: “Sao ông đi
nhanh như thế?” Quư vị thấy Ngài trả lời vô
cùng ư nghĩa: “Ở lại một đêm!” Đến ngày
hôm sau mới đi, v́ thế gọi là “nhất túc giác” (một đêm giác ngộ). Ngài trụ
một đêm tại nơi hiện thời là Nam Hoa Tự
một đêm, ngày hôm sau mới đi. Vốn Ngài muốn đi
ngay trong lúc ấy, quay đầu đi luôn, thật sự khai
ngộ. Ngài là một trong bốn mươi ba người
khai ngộ; đấy là thiền sư Vĩnh Gia Huyền
Giác. Từ truyện kư Trung Quốc, chúng ta thấy xuất
gia lẫn tại gia đều có người đạt được
cảnh giới ấy!
“Hoặc thuyết giả thời
thiểu, thính giả thời đa” (Hoặc người
nói trong thời gian ngắn, người nghe [cảm thấy]
thời gian dài). Khi nói, thời gian cũng chẳng nhiều,
người nghe cảm thấy thời gian rất dài, nghe
rất nhiều. Hoặc là người nói thời gian dài, người
nghe [cảm thấy] thời gian ít, cho thấy rơ ràng thời
gian chẳng phải là pháp cố định. “Hoặc thuyết giả thần
lực diên xúc tùy nghi” (hoặc người nói dùng thần
lực kéo dài hay rút ngắn tùy nghi), đấy là nói tổng
quát, người giảng kinh có thần thông, thời gian dài
hay ngắn có thể biến hóa theo ư niệm. Người ấy
có ư niệm “hy vọng thời gian lâu dài” nó sẽ biến
thành dài, chẳng cần một thời gian dài, chỉ trong
thời gian ngắn, người nghe có thể khế nhập
cảnh giới, thời gian bèn có thể rút ngắn. “Thính giả, căn khí lợi
độn bất nhất” (căn khí của người
nghe là lợi căn hay độn căn chẳng phải
chỉ một): Căn khí nhạy bén có thể ngộ nhập
trong một sát-na; căn khí độn phải mất một
thời gian khá dài mới có thể ngộ nhập, chúng ta
thường nói “thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài” là đối với căn cơ nào?
Độn căn! Lợi căn không cần. Nhưng chúng
sanh trong lục đạo lợi căn quá ít, độn
căn nhiều; v́ thế, nhiều kinh luận đều thiên
về độn căn để giảng, đề
xướng “thâm nhập một
môn, huân tu lâu dài”, đấy là nói với kẻ độn
căn, chẳng phải dành cho kẻ lợi căn, chẳng
dạy lợi căn theo cách ấy! Lợi căn thật
sự là “nghe một, ngộ cả
ngàn” giống như Huệ Năng đại sư là bậc
lợi căn, trong thời gian rất ngắn, qua mấy câu,
đă hoàn toàn thông đạt, hiểu rơ, thông đạt hết
thảy các pháp. Độn căn cũng là như vậy, họ
có thể huân tu lâu dài, mười năm, hai mươi năm,
ba mươi năm bèn đại triệt đại ngộ.
V́ sao
căn tánh khác nhau? Nói thật ra, [ai nấy] có cùng một tự
tánh, há lẽ nào khác nhau; nhưng do trong kiếp quá khứ,
hoàn cảnh sống của mỗi cá nhân khác nhau, nếu bỏ
sót giáo huấn của thánh hiền sẽ bị nhiễm
dơ; có người bị ô nhiễm nghiêm trọng, có
người ô nhiễm nhẹ hơn, chẳng phải là do
đạo lư ấy hay sao? Ô nhiễm nhẹ, căn cơ
bèn nhạy bén; ô nhiễm nghiêm trọng, căn cơ chậm
lụt. Nếu suy xét cẩn thận,
[căn cơ lợi hay độn] cũng liên quan đến
đời quá khứ. Chúng ta biết: Chúng ta luân hồi trọn
chẳng phải chỉ một đời này, trong quá khứ,
đường nào cũng đều đă sanh vào, mọi
người đều giống như vậy, chẳng có ngoại
lệ. Trong quá khứ, quư vị cũng đă làm thiên
vương, thiên thần, mà cũng đă biến thành súc
sanh, cũng từng đọa địa ngục, đều
như nhau. Nhưng trong lục đạo, nhân đạo rất
đặc thù, nhân đạo là mấu chốt: Sanh lên thiên
đường phải qua nhân đạo, đọa tam
đồ cũng trải qua nhân đạo, thoát khỏi tam
giới chứng Bồ Đề cũng ở ngay trong nhân
đạo. Nhân đạo là mấu chốt, là cốt lơi.
Tu thiện, tu phước trong nhân đạo, đời
sau hưởng báo trong thiên đạo. Phải nên thay một
chữ trong “hưởng phước” cho thích hợp
hơn, tức là “tiêu phước”. Quư vị tu phước,
phước báo ấy phải tiêu trừ, v́ sao phải tiêu
trừ? Trong tự tánh không có thứ ấy, đó là ô nhiễm,
chẳng thanh tịnh. Huệ Năng đại sư nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự
thanh tịnh”, tội và phước đều chẳng
phải là thanh tịnh, trong tự tánh không có những thứ
ấy. Do vậy, quư vị tu phước báo nhiều như
vậy, phải lên cơi trời để tiêu. Hưởng
phước là tiêu phước báo. Quư vị làm chuyện bất
thiện th́ sao? Vào trong tam đồ để tiêu tội
nghiệp, thảy đều tiêu trừ, bèn trở lại
nhân gian, lại trở về nơi này. Nếu quư vị gặp
gỡ Phật pháp, rất khó có, quư vị vượt thoát,
đấy là t́nh trạng thật sự trong lục đạo.
Lúc ở trong nhân đạo, đúng là tùy theo ư niệm của
chính ḿnh mà đường nào cũng đều có thể vào,
nhưng quư vị ở trong đường nào mà nghiệp
thuộc đường ấy chưa tiêu, sẽ chẳng
thể rời khỏi đường ấy! Đó là căn
khí lợi hay độn không giống nhau.
“Cổ vị tam thừa phàm thánh
sở kiến Phật thân báo hóa, niên tuế đoản
trường, thành Phật cửu cận, các các bất
đồng cố” (cổ nhân nói: “Tam thừa phàm thánh thấy
báo thân và hóa thân của Phật có thọ mạng dài hay ngắn,
thành Phật đă lâu hay gần đây, mỗi người
mỗi khác”), đây cũng là hiện tượng có thật.
Do vậy, ta biết lời đức Phật dạy là đúng:
“Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”, câu này quá quan trọng. Trong hết thảy
cảnh giới, nếu chúng ta thường có thể khởi
lên câu này, quư vị sẽ chẳng bị cảnh giới bên
ngoài xoay chuyển, mà có thể chuyển đổi cảnh
giới. Hết thảy các pháp sanh từ tâm tưởng, tâm
tưởng của ai? Tâm tưởng của chính ḿnh. Đă
là sanh từ tâm tưởng của chính ḿnh, v́ sao ta chẳng
sanh Phật? Sanh Phật bằng cách nào? Niệm Phật bèn
sanh Phật, niệm niệm là A Di Đà Phật, niệm
niệm bèn sanh A Di Đà Phật. Trong Cao Tăng Truyện có
chép, vị tổ thứ hai của Tịnh Tông là Thiện Đạo
đại sư đời Đường, theo truyện kư
ghi chép, lăo nhân gia niệm Phật, niệm Phật hiệu một
tiếng, trong miệng tỏa ra một tia bạch quang,
trong bạch quang có một tượng A Di Đà Phật, niệm
mỗi câu đều hiện tượng Phật. Theo truyện kư cho biết, Thiện Đạo
đại sư là A Di Đà Phật tái lai, đó chính là A Di
Đà Phật thị hiện cho chúng ta thấy, thị hiện
điều ǵ? “Nhất niệm
tương ứng nhất niệm Phật, niệm niệm
tương ứng niệm niệm Phật”. Chúng ta niệm
một câu A Di Đà Phật có ánh sáng hay không, có Phật hay
không? Có! Khẳng định là có. V́ sao không thấy? Chúng ta
nghiệp chướng chưa tiêu trừ, ánh sáng và Phật
rất nhạt, người b́nh phàm chúng ta chẳng thấy
được. Thiện Đạo đại sư niệm
Phật, quang minh và Phật mọi người đều
có thể trông thấy v́ tâm Ngài thuần, thuần tịnh,
thuần thiện, đúng là niệm niệm tương ứng
với thanh tịnh, b́nh đẳng, giác; cho nên Ngài hiện
tướng rơ rệt như vậy. Đạo lư là như
vậy đó!
“Tam thừa phàm thánh”: Tam thừa
là Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, đấy là thánh, tam thừa
đều là thánh. Phàm là lục đạo phàm phu. Chúng ta học
Phật, thấy thân Phật, Phật có báo thân, hóa thân, tuổi
thọ dài hay ngắn, thành Phật đă lâu hay gần đây,
mỗi người thấy khác nhau. Thích Ca Mâu Ni Phật xuất
hiện trong thế gian này, thế thọ, tức tuổi
thọ trên thế gian này là tám mươi tuổi, người
Trung Quốc tính tuổi theo lối hư tuế (tuổi
ta) là tám mươi tuổi, người ngoại quốc nói
tuổi thật sự, nên là bảy mươi chín tuổi.
Đức Phật thị hiện thành đạo lúc ba mươi
tuổi, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh, sau khi thành đạo bèn bắt đầu giáo học.
Dạy cho đến khi Ngài viên tịch, bảy mươi
chín tuổi viên tịch. V́ thế, thuyết pháp bốn mươi
chín năm, giảng kinh hơn ba trăm hội. Chúng ta thấy
sách này nhắc tới thân tướng của Thích Ca Mâu Ni
Phật, đó là Ứng Thân, tức thân ứng hóa, ba
mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp.
Kinh ghi chép thân [Phật] cao một trượng sáu, tức “trượng lục kim thân”. Khi
chúng ta thấy “một trượng sáu”, [bèn nghĩ] quá lớn,
cao gấp đôi người thông thường! Chẳng phải
vậy! Thước trong hệ thống đo lường
thuở ấy chẳng dài như vậy. Chúng ta hăy xem [trước
tác] của Hoằng Nhất đại sư. Hoằng Nhất
đại sư nghiên cứu giới luật, Ngài có bài Châu
Xích Khảo (khảo sát về thước đời Châu),
Ngài đă nghiên cứu đời Châu, một thước vào
đời Châu dài bao nhiêu? Gần như bằng sáu tấc
hiện thời, [nói theo] thị xích[5], tức [một thước đời
Châu bằng] sáu tấc của một thị xích Trung Quốc
[hiện thời]. Đo lường thời cổ và hiện
tại khác nhau. Do vậy, chiếu theo đó, Thích Ca Mâu Ni Phật
là người [có chiều cao] rất b́nh thường, chẳng
có ǵ đặc biệt lắm. Thị hiện tám tướng
thành đạo, hợp t́nh, hợp lư, chúng ta đọc được
điều ấy từ kinh thư.
Hóa thân cũng
rất nhiều. Thuở trước, tôi sang Hương Cảng
giảng kinh lần đầu, pháp sư Thánh Nhất bảo
tôi, thuở ấy, Đại Lục vẫn chưa mở
cửa, bọn họ gồm ba vị pháp sư đi triều
bái Quán Thế Âm Bồ Tát. Triều Âm Động ở Phổ
Đà Sơn là nơi Bồ Tát thường hiện thân, họ
thành tâm thành ư đến lạy, lễ bái ở cửa động,
họ là ba người xuất gia. Ba người kết bạn,
lạy ở cửa động nửa giờ, Quán Âm Bồ
Tát xuất hiện, ba người đều hoan hỷ. Lúc
trở về, ba người tṛ chuyện, [hỏi nhau] có
thấy Bồ Tát hay không? Thấy! Ba người đều
thấy, “nhưng ông thấy như thế nào?” Pháp sư Thánh
Nhất thấy Bồ Tát có h́nh dạng giống như Địa
Tạng Bồ Tát, đội măo Tỳ Lô, Địa Tạng
Bồ Tát đội măo, kim thân, tức toàn thân là sắc vàng,
Ngài thấy h́nh tượng ấy. Một pháp sư khác thấy
Bồ Tát hiện h́nh Bạch Y Quán Âm giống như chúng ta
thường thấy [h́nh tượng] Bạch Y Quán Âm, thầy
ấy thấy h́nh dáng đó. C̣n một vị pháp sư nữa
th́ thấy Ngài là người xuất gia, mang h́nh dáng tỳ-kheo.
Quư vị thấy ba người cùng lúc lạy Quán Âm Bồ
Tát tại động Triều Âm, đều thấy
được Bồ Tát, nhưng hóa thân khác nhau, thời
gian dài hay ngắn cũng khác nhau. Có người thấy hơn
nửa giờ rồi tướng ấy chẳng c̣n nữa.
Có người thấy mấy phút; đấy là mỗi cá nhân
duyên phận khác nhau. Những việc như vậy rất
phổ biến, cũng có thể là bản thân chúng ta đă
từng gặp.
Chúng ta lại
thấy cụ Niệm Tổ viết tiếp: “Kim chỉ thủ Phật cập
đệ tử sư tư cơ cảm tương ngộ
chi khoảnh, thuyết thính sự tất, tiện danh Nhất
Thời dă” (Nay chỉ lấy lúc Phật và đệ tử,
thầy tṛ cơ cảm gặp gỡ, nói nghe xong xuôi bèn gọi
là Nhất Thời). Đây là cách nói của những nhà giảng
kinh từ xưa, những pháp sư giảng kinh đều
chọn cách nói này để giải thích chữ “nhất thời”, “nhất thời” là lúc gặp
gỡ. Thích Ca Mâu Ni Phật khai thị, giảng kinh Vô
Lượng Thọ cho chúng ta, giảng viên măn bộ kinh Vô
Lượng Thọ này th́ gọi là “nhất thời”. Rất nhiều nhà giảng kinh
đều nói theo cách này; v́ thế, quư vị thấy Phật
Địa Luận cũng giảng giống như vậy:
“Thuyết thính cứu cánh, tổng
ngôn nhất thời” (nói nghe xong xuôi, gọi chung là “nhất
thời”). Thích Ca Mâu Ni Phật thuyết pháp, chúng ta nghe pháp,
Ngài giảng xong, chúng ta cũng nghe xong, đấy là “nhất thời”. “Thị cố kinh trung bất
ngôn mỗ niên, mỗ nguyệt, đản dĩ sư cập
đệ tử, cơ ứng ḥa hợp, thuyết thính sự
tất, tức danh nhất thời” (V́ thế trong kinh
chẳng nói năm nào, tháng nào, chỉ lấy chuyện thầy
và đệ tử cơ cảm tương ứng, ḥa hợp,
nói và nghe xong xuôi, liền gọi là Nhất Thời). “Cơ ứng”: Cơ là học
tṛ, chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng, “cơ ứng ḥa hợp” cũng chính là cảm ứng
đạo giao. Nói nghe đă viên măn, bèn gọi là Nhất Thời.
Tiếp đó,
cụ Hoàng bảo chúng ta: “Hựu
kinh trung bất cử niên nguyệt giả, các địa lịch
pháp bất đồng” (lại nữa, trong kinh chẳng
nêu năm tháng v́ lịch pháp các nơi sai khác), lịch pháp Ấn
Độ và Trung Quốc khác nhau, dẫu ghi chép năm, tháng,
ngày th́ người Hoa cũng chẳng có cách nào khảo sát.
“Hựu thế giới thời
phần bất nhất” (lại nữa cách phân định
thời gian trên thế giới chẳng giống nhau). Nếu
quư vị mở rộng phạm vi, hướng đến
đại thế giới, nay chúng ta gọi là “múi giờ sai khác” (thời
sai) th́ múi giờ sai biệt khác nhau. “Tứ Thiên Vương Thiên nhất nhật, tiện
thị nhân gian ngũ thập niên” (một ngày trên cơi trời
Tứ Thiên Vương là năm mươi năm trong nhân
gian), Tứ Vương Thiên là tầng thấp nhất của
sáu tầng trời thuộc Dục Giới, gần chúng ta
nhất, [bốn thiên vương trong tầng trời ấy]
được gọi là Tứ Đại Thiên
Vương. Thời gian trên cơi trời ấy khác biệt với
thời gian trên địa cầu rất lớn, một ngày
của họ bằng năm mươi năm trong nhân gian.
Đao Lợi Thiên lại lâu gấp đôi. Người
Trung Quốc gọi [chúa tể] Đao Lợi Thiên là Ngọc
Hoàng Đại Đế, một ngày trên trời Đao Lợi
bằng một trăm năm trong nhân gian. Lên cao hơn, tăng
gấp bội. Một ngày trên trời Dạ Ma bằng hai
trăm năm trong nhân gian. Một ngày trên Đâu Suất Thiên,
đạo tràng của Di Lặc Bồ Tát ở đó, một
ngày ở đó bằng bốn trăm năm trong nhân gian. V́
thế, Đâu Suất Thiên thấy nhân gian rất đáng
thương, con người sống một trăm tuổi,
chỉ là một phần tư của một ngày [trên Đâu
Suất Thiên], tức sáu giờ, họ thấy chúng ta chỉ
sống sáu giờ, chưa được nửa ngày. V́ thế,
nói “thời phần chẳng nhất
định”.
“Thả hiện đại khoa học
chứng minh” (hơn nữa, khoa học hiện đại
chứng minh), lăo cư sĩ Hoàng Niệm Tổ học khoa
học, “thái dương vi nhiễu
Ngân Hà hệ trung tâm vận hành nhất châu (tức thái
dương thượng chi nhất niên)” (mặt trời
xoay quanh hệ Ngân Hà một ṿng, tức là một năm mặt
trời), một ṿng ấy được gọi là một
năm, tức “thái dương
niên”, một năm mặt trời bằng bao nhiêu năm
trên địa cầu? “Tương
đương ư địa cầu thời gian chi nhị
vạn vạn niên” (tương đương với
thời gian hai vạn vạn năm trên địa cầu),
hai ức năm! Mặt trời xoay quanh Ngân Hà một ṿng,
một năm mặt trời là hai ức năm trên nhân
gian. “Tắc thời gian tùy vật
thể vận động tốc độ nhi biến dị,
bổn phi định lượng. Cố kinh trung kỳ
ngôn nhất thời tối thiết thực tế” (vậy
th́ thời gian tùy thuộc tốc độ chuyển động
của vật thể mà thay đổi khác biệt, vốn
chẳng phải là một đại lượng cố định.
V́ thế, trong kinh nói “nhất thời” sát với thực tế
nhất). Nói thật ra, nói “nhất
thời” hay quá, “nhất thời”
là ǵ, rốt cuộc giải thích như thế nào? Nay chúng
tôi đă hiểu, liễu giải ư Phật, tức là như
Di Lặc Bồ Tát đă nói một niệm, trong một cái
khảy ngón tay có ba mươi hai ức trăm ngàn niệm,
một niệm ấy là “nhất
thời”. Tất cả hết thảy hiện tượng
vật chất trong vũ trụ đều là huyễn tướng
tích lũy liên tục của ư niệm, do vậy, nói “nhất thời” rất chính
xác, rất chân thật. “Nhất
niệm” là một phần trong ba trăm hai mươi
triệu phần của một cái khảy ngón tay, chẳng
phải là một giây; nếu là giây th́ giây hăy c̣n dài, niệm
là [một phần rất nhỏ] của một cái khảy
ngón tay.
Chúng ta lại
xem đoạn kế tiếp: “Phật
giả, Chủ Thành Tựu dă” (Phật là Chủ Thành Tựu),
Chủ là chủ tịch đại hội, chủ giảng
trong giảng đường, ở đây, chúng tôi dùng chữ
“chủ giảng” mọi người
sẽ dễ hiểu. V́ đức Phật giáo học, nên lăo
nhân gia là chủ giảng. “Phật vi nhất thiết chúng
sanh chi tông chủ, cố danh vi Chủ” (Đức Phật
là đấng chánh yếu được hết thảy
chúng sanh tôn sùng, nên gọi là Chủ). Đối với ư
nghĩa chữ Tông (宗), tại Trung Quốc, nói thông thường sẽ
có ba ư nghĩa: Thứ nhất là chủ yếu, ư nghĩa
thứ hai là trọng yếu, ư nghĩa thứ ba là tôn sùng. V́
vậy, chúng ta dùng ba ư nghĩa này để nói về Phật
giáo, giáo dục của Phật Đà là ǵ? Giáo dục của
Thích Ca Mâu Ni Phật trong thế gian này là giáo dục chủ
yếu, là giáo học trọng yếu, là sự giáo hóa
đáng tôn sùng. Bản thân Phật môn xưng là Tông Giáo, chẳng
liên quan ǵ đến ư nghĩa được bao hàm trong
danh từ “tôn giáo” hiện thời. Bản thân Phật môn xưng
là Tông Giáo, v́ nó có hai thứ phương pháp giáo học hoàn toàn khác nhau là Tông Môn và Giáo Hạ. [Tông Môn]
là Thiền Tông, phương pháp giáo học của Thiền
Tông và chín tông [c̣n lại] khác nhau, chín tông kia gọi là Giáo Hạ,
giống như trong trường học, [Giáo Hạ] là nói
với ai? Nói với kẻ độn căn.
Trong Phật pháp, thường nói là [những giáo huấn] “giảng
cho căn cơ trung hạ”, [căn cơ trung hạ] chiếm
tỷ lệ tối đa, nên phải dùng Giáo, Giáo là
giáo học trong một thời gian dài. V́ vậy, đề
xướng “thâm nhập một
môn, huân tu dài lâu” dành cho người thuộc căn cơ
trung hạ. Đối với người thượng thượng
căn, thông minh tuyệt đỉnh, thiên tài, chẳng cần
phải phiền phức như thế, họ có năng lực
đốn ngộ.
V́ thế,
nói thật ra, đốn ngộ là ngộ như thế nào?
Buông xuống bèn khai ngộ, trong kinh, đức Phật đă
nói điều này rất rơ ràng. Chúng ta đều nên ghi nhớ,
cũng có thể nói là đối với vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước như kinh Hoa Nghiêm đă nói,
quư vị có thể đốn xả ba thứ ấy, hễ
buông xuống bèn khai ngộ. Thuở ấy, Thích Ca Mâu Ni Phật
ở dưới cội Bồ Đề, ban đêm thấy
sao Mai, do triệt để buông xuống bèn đại triệt
đại ngộ. Trong phương trượng thất của
Ngũ Tổ, Huệ Năng đại sư nghe câu “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm”, Ngài buông xuống bèn khai ngộ, một ngộ, hết
thảy ngộ. Hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, không có pháp nào chẳng thông đạt, chẳng
bị pháp nào chướng ngại, đấy là khai ngộ
thật sự. Hễ c̣n có một pháp chẳng hiểu rơ,
chẳng thông đạt, tức là chưa khai ngộ, chẳng
phải là triệt ngộ. Bởi lẽ, ngộ có triệt
ngộ, đại ngộ, và tiểu ngộ, rất nhiều
tầng lớp. Kẻ độn căn tích tập tiểu
ngộ thành đại ngộ, tích tập đại ngộ
thành đại triệt đại ngộ, dần dần,
thời gian ấy rất dài. Phải ngộ như thế
nào? Hăy nhớ buông xuống. Không buông xuống, học cách nào
cũng chẳng ngộ.
Khai ngộ
chẳng dính dáng đến học hay không học, trong Đàn
Kinh đă ghi chép lời Huệ Năng đại sư nói
với tỳ-kheo-ni Vô Tận Tạng. Do vậy ta biết,
[khai ngộ] chẳng liên quan đến học tập kinh
giáo nhiều hay ít, chẳng có mối liên hệ ǵ. Thông thường,
đối với người khai ngộ th́ người khai
ngộ chú trọng buông xuống, một môn sẽ hữu
hiệu nhất, dễ dàng buông xuống. Học rất nhiều
pháp môn, đâm ra sẽ khó khăn, chẳng dễ ǵ buông xuống,
dễ biến thành học thuật, biến giáo huấn của
Phật Đà thành Phật học, biến thành một thứ
học thuật, không thể thụ dụng. Thật sự
được thụ dụng th́ phải đạt được
học vị trong Phật môn. Buông chấp trước xuống,
quư vị chứng quả A La Hán. Buông phân biệt xuống,
quư vị là Bồ Tát, đạt được Chánh Đẳng
Chánh Giác. Buông khởi tâm động niệm xuống, quư vị
là Phật Đà, chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Trong kinh Đại Thừa, đức Phật giảng
như vậy rất nhiều. Chúng ta phải thường
thấu hiểu trong tâm, biết phải tu hành ra sao, giúp chính
ḿnh đắc Định. Điều này vô cùng quan trọng,
đắc Định là tam-muội. Chúng ta tu pháp môn Niệm
Phật, đắc Niệm Phật tam-muội, có ích to lớn
cho sự văng sanh của chúng ta. Chưa đạt được
Niệm Phật tam-muội, văng sanh sẽ sanh vào cơi Phàm Thánh
Đồng Cư. Nếu đắc tam-muội, sẽ sanh
vào cơi Phương Tiện Hữu Dư. Nếu khai ngộ,
đại triệt đại ngộ, sẽ sanh vào cơi Thật
Báo Trang Nghiêm, khác nhau! Do vậy, Thích Ca Mâu Ni Phật, A Di
Đà Phật, lịch đại tổ sư Bồ Tát buốt
ḷng rát miệng nói lời chân thật, dạy chúng ta thâm nhập
một môn, huân tu lâu dài. Quư vị có thể học tập như
vậy, quyết định thành tựu trong một đời.
Thành tựu là văng sanh, văng sanh là thật sự thành tựu,
văng sanh đúng là thành Phật trong một đời. Do khăng
khăng một mực, tâm người ấy sẽ định.
Lan man quá nhiều, tâm luôn xáo động, phập phều, nói
chung là chẳng thể định, chúng ta thử xem sẽ
biết. Quư vị đồng thời học mấy pháp
môn, tâm sẽ chẳng thể định. Học một
pháp môn trong một thời gian dài, tâm sẽ định. Tŕ
giới giúp quư vị đắc định; v́ thế, tŕ
giới vô cùng trọng yếu, chớ nên xem nhẹ.
Tiếp
đó, sách viết: “Hựu lục
thành tựu trung, Chủ Thành Tựu tối vi chủ cố”
(Lại nữa, trong sáu thứ thành tựu, Chủ Thành Tựu
là chủ yếu nhất), điều này trọng yếu
nhất. Phật là vị chủ giảng, tức là chủ
giảng trong buổi học, không có Ngài, những điều
thành tựu khác há có tác dụng ǵ? Do vậy, [Chủ Thành Tựu]
trọng yếu hơn bất cứ điều ǵ khác. Tiếp
đó, sách giải thích chữ “Phật”, chữ này rất
trọng yếu. Xă hội hiện tại nẩy sanh sự
hiểu lầm nghiêm trọng đối với Phật. Sự
hiểu lầm ấy chướng ngại rất nhiều
người trong cả đời này, khiến cho họ đối
với cơ hội tốt đẹp ở ngay trước
mặt mà bỏ lỡ. V́ nói về mặt lợi ích nhỏ
nhất của cơ hội này th́ nó có thể giúp quư vị
khỏe mạnh, trường thọ, Phật pháp có thể
giúp quư vị thăng quan, phát tài, phá mê, khai ngộ, tăng
trưởng trí huệ. Những thứ nhân gian chúng ta cần
đến, Phật pháp đều giúp được, thật
sự có thể giúp, chẳng giả tí nào! Lúc tôi mới học
Phật, thầy bảo tôi: “Trong
cửa nhà Phật, có cầu ắt ứng”. Bất luận
quư vị cầu ǵ, quư vị thấy: Cầu thành Phật mà
c̣n có thể làm được, th́ cầu phú quư trong cơi trời
người đáng gọi là “lông gà, vỏ tỏi”, quá dễ
dàng! Thầy nói trong kinh Phật có căn cứ lư luận, đạo
lư, và phương pháp để cầu, đúng lư, đúng
pháp, không có ǵ chẳng cầu được! Quư vị cầu
chẳng được, không có cảm ứng, là do nguyên
nhân nào? Quư vị không đúng pháp, chẳng đúng lư. Đúng
lư, đúng pháp mà cầu không được là do quư vị
nghiệp chướng rất nặng. Chỉ cần sám trừ
nghiệp chướng, những điều mong cầu sẽ
cảm ứng lập tức hiện tiền, thật đấy,
chẳng giả đâu! Nói theo nguyên lư, đó là nguyên lư vĩnh
hằng không thay đổi trong kinh Phật, hết thảy
các pháp sanh từ tâm tưởng, chẳng giả tí nào. Hiện
thời các nhà Lượng Tử Lực học đă phát
hiện đạo lư này. Tôi tin tưởng khoa học Lượng
Tử dăm ba năm nữa sẽ rất phổ biến,
rất hữu ích cho nhân loại, thật sự có thể
giúp chúng ta giải quyết nhiều vấn đề.
Đức
Phật dạy chúng ta, nay mọi người cầu của
cải, thông minh, trí huệ, khỏe mạnh, trường
thọ, mọi người mong cầu những điều
ấy, trong Phật pháp có phương pháp. Tôi biết phương
pháp ấy là do thuở tôi học Phật, Chương Gia
đại sư dạy tôi, [lúc ấy] tôi hai mươi sáu
tuổi. Số mạng tôi rất khổ, là số mạng
bần tiện, bần là không có của cải, tiện là không
có địa vị xă hội, bần tiện đến tột
cùng! Thầy dạy tôi cách thoát khỏi bần tiện, muốn
thoát khỏi, dùng phương pháp ǵ? Ngài bèn dạy tôi: “Trong cửa nhà Phật, có cầu
ắt ứng”. Của cải do đâu mà có? Của cải
là quả báo, quả ắt có nhân. Nhân là ǵ? Nhân là tài bố
thí, xả tài được phước. Mạng tôi nhằm
trúng vận mạng bần tiện, lấy đâu ra tài? Cuộc
sống vô cùng khốn khó, gần như tự lo cho ḿnh c̣n
không xong, tiền đâu để bố thí? Thầy hỏi
tôi: “Một cắc có hay không?” Một cắc th́ vẫn c̣n được!
“Một đồng có được hay không?” Một đồng
cũng rất miễn cưỡng, c̣n có thể, chứ
nhiều hơn th́ không nổi! Thầy dạy tôi: “Anh hăy bắt
đầu từ một cắc, một đồng, phải
dưỡng thành cái tâm bố thí, thường có ḷng giúp đỡ
người khác”. Sau đấy, tôi c̣n hiểu: Tôi không có tiền
th́ tôi làm công quả. Công quả là nội tài bố thí, phước
báo c̣n lớn hơn nữa. Tiền tài là ngoại tài, ngoại
tài dẫu nhiều, phước báo không lớn, nội tài phước
báo lớn. Tôi dùng thể lực, thời gian, và trí huệ
của chính ḿnh để phục vụ đại chúng, đó
đều gọi là “nội tài bố thí”, đều thuộc
tài bố thí, đạt được của cải. Thầy
dạy, tôi bèn thật sự làm. Nhân của thông minh, trí huệ
là quả báo là ǵ? Nhân là pháp bố thí. Pháp là ǵ? Ta biết, ta
hiểu, bèn hoan hỷ truyền dạy người khác, vui
vẻ dạy người khác, người khác chẳng hiểu,
ta dạy họ, đó gọi là pháp bố thí. Pháp bố
thí có quả báo là tăng trưởng thông minh, trí huệ.
Loại
thứ ba là vô úy bố thí, quả báo là được khỏe
mạnh, trường thọ. Vô úy là ǵ? Giúp hết thảy
chúng sanh khổ nạn rời ĺa kinh hoảng, sợ hăi, đó
là vô úy bố thí. Đặc biệt là khi đau khổ, ngă
bệnh, cần người khác giúp đỡ, khi gặp nạn
gấp cần người khác giúp đỡ, gặp người
có khó khăn bèn giúp một tay, sẽ được khỏe
mạnh, trường thọ. Trong cuộc sống hằng
ngày, quan trọng nhất là chẳng sát sanh, không ăn thịt.
Đó là ǵ? Đấy là vô úy bố thí, quư vị chẳng tổn
hại chúng sanh. Tích cực phóng sanh. Phóng sanh là cứu mạng,
một con cá, một con tôm cũng là một cái mạng, quư
vị có thể giúp cho chúng sống thêm vài ngày, chúng rất
cảm ơn quư vị; quả báo là được khỏe
mạnh, trường thọ. Tôi tiếp nhận lời giáo
huấn của thầy; v́ thế, quư vị thấy tôi bắt
đầu học tập chưa đầy nửa năm
bèn ăn chay trường. V́ sao? V́ tôi biết chính ḿnh thọ
mạng chẳng dài, rất nhiều người xem tướng,
đoán số cho tôi, nói tôi sống không quá bốn mươi
lăm tuổi. Tôi tin tưởng, thọ mạng của
chính ḿnh đă định sẵn là bốn mươi
lăm tuổi, học Phật đến năm bốn mươi
lăm tuổi, nhất định phải có thành tựu, v́
sau bốn mươi lăm tuổi sẽ chẳng c̣n [cái
thân] nữa! Do vậy, tôi cũng rất sốt sắng học
tập ba thứ bố thí ấy. Khó khăn đến đâu,
tâm bố thí vẫn là chân tâm, thật sự làm. Hiệu quả
vô cùng rơ rệt, đúng là từ khi phát tâm ấy, một đồng, một cắc bố
thí, sau đôi ba năm, thâu nhập tăng hơn nhiều,
hữu hiệu. Bố thí càng nhiều hơn, càng thí càng nhiều,
chẳng giả tí nào, chứng minh những điều
đức Phật đă giảng trong kinh là thật.
Pháp bố thí là học
kinh giáo. Lên đài giảng kinh, ba thứ bố thí đầy
đủ. Giảng kinh cần đến thể lực, thời
gian, tinh thần, đấy là ǵ? Nội tài bố thí. Giảng
giải kinh điển Phật pháp cho mọi người,
đó là pháp bố thí. Sau khi quư vị thật sự nghe hiểu
kinh điển, học tập, có thể tiêu trừ hết
thảy khổ nạn, đó là vô úy bố thí. V́ vậy,
thuở ấy, thầy cổ vũ, khích lệ tôi giảng
kinh, lên đài giảng kinh. Khi thầy khích lệ tôi, tôi sợ
hăi, thưa: “Con đến Đài Trung là để nghe kinh,
theo thầy học tập, con chẳng dám lên đài giảng
kinh. Con c̣n nghe nói, trong Phật môn có lời truyền: ‘Nói trật
một chữ, sẽ phải đọa làm thân chồn hoang
năm trăm đời’, sợ quá, làm sao dám giảng?” Cuối
cùng vẫn nghe theo quyết định của thầy. Thầy
nói: “Đúng vậy, nói trật một chữ, tự đọa
làm thân chồn hoang, chuyện ấy chẳng phải là giả,
thật đấy! Nhưng vào thời cổ, giảng kinh
phải chứng quả th́ mới có thể giảng kinh; chưa
chứng quả, chẳng thể giảng kinh. V́ thế, cổ
thánh tiên hiền chú giải kinh đều là người
đă chứng quả, chẳng phải là phàm nhân; nhưng
trong thời đại hiện tại, không chỉ chẳng
có người chứng quả, mà người khai ngộ cũng
không có. Nếu chúng ta chẳng phát tâm giảng, Phật pháp sẽ
bị tiêu diệt trong đời này”. Thầy nói lời ấy,
lời lẽ nghiêm trọng, cách làm ra sao? “Chúng ta nhất
định phải phát tâm cứu vớt Phật giáo. Do vậy,
anh nhất định phải phát tâm học giảng kinh. Giảng
bằng cách nào trong khi chính ḿnh chưa khai ngộ? Giảng
chú giải của cổ nhân. Chúng ta giảng trật là do cổ
nhân chú giải trật, họ chịu trách nhiệm, chúng ta
chẳng lănh trách nhiệm”. Thầy chỉ điểm khiến
chúng tôi tỉnh ngộ. [Giảng kinh trong hiện thời]
giống như chú giải của cổ nhân viết bằng
lối văn Văn Ngôn, chúng ta dịch Văn Ngôn thành văn
Bạch Thoại, chúng ta có thể làm được điều
này. Nếu chúng ta gặp khó khăn khi đọc Văn Ngôn,
nay các pháp sư cận đại có chú giải bằng văn
Bạch Thoại, chúng ta dùng những thứ ấy. Thầy
chỉ định chú giải của những vị nào có
thể đọc, v́ sao? Họ có tu, thật sự tu hành, chẳng
nói tùy tiện. Thầy chỉ định tôi đọc [các
bản chú giải] của pháp sư Đế Nhàn, pháp
sư Đàm Hư, pháp sư Viên Anh, và pháp sư Hưng Từ,
kể ra bảy tám thứ, “anh đọc những tác phẩm
của các vị pháp sư ấy sẽ chẳng trật”. Chúng
tôi đi theo con đường ấy mới phát khởi tâm
học giảng kinh; v́ lẽ đó, chẳng rời chú giải
của cổ nhân.
Tôi giảng
kinh Hoa Nghiêm theo hai vị thầy, một vị là Thanh Lương,
vị kia là cư sĩ Lư Thông Huyền, [tức là dựa
trên hai bản chú giải Hoa Nghiêm Kinh] Sớ Sao của Thanh
Lương đại sư và Hợp Luận của Lư Thông
Huyền. Tôi tham khảo hai bản chú giải ấy để
giảng. Lần này, chúng tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ,
hoàn toàn dùng bản chú giải của lăo cư sĩ Hoàng Niệm
Tổ. Tôi vô cùng cảm tạ cụ đă soạn chú giải
cho kinh này hay như thế, thật khó có! Tôi và cụ đến
lúc tuổi già mới gặp được nhau, lúc ấy,
cụ đă bảy mươi mấy tuổi, tôi ngoài sáu mươi.
Người đầu tiên gọi tôi là “lăo pháp sư” chính
là cụ. Sáu mươi tuổi là lăo nhân, tôi đă hơn sáu
mươi tuổi. Gặp cụ ở Bắc Kinh, cụ
liền bảo học tṛ gọi tôi là lăo pháp sư. Viết
bản chú giải này chẳng dễ dàng, cụ một thân
bệnh tật nặng nề, ngày đêm chẳng ngủ,
chẳng nghỉ ngơi, hoàn thành bản chú giải này, tôi
thấy vậy vô cùng cảm động. Sau khi sách hoàn thành,
cụ muốn tôi viết lời tựa, tôi cũng vâng lệnh
viết, quư vị đă thấy [lời tựa ấy]
trong bản Chú Giải. V́ vậy, tôi giảng lần này nhằm
kỷ niệm cụ, đặc biệt treo h́nh cụ ở
đây. Lúc cụ văng sanh, gần như là trong thời gian nửa
năm, mỗi ngày cụ niệm Phật hiệu mười
bốn vạn câu, sanh về thế giới Cực Lạc.
Sau khi hoàn thành chú giải, cụ thật sự buông xuống
hết thảy. Cụ đă học rất nhiều, từng
học Thiền, theo lăo ḥa thượng Hư Vân học Thiền,
cũng học Mật, Tông Môn, Giáo Hạ cụ đều đă
từng nghiên cứu, tới lúc mạng chung đều buông
xuống hết, một câu A Di Đà Phật niệm đến
cùng. Điều này có liên quan đến thầy cụ. Thầy
của cụ là cư sĩ Hạ Liên Cư. Cư sĩ Hạ
Liên Cư cũng thông Tông, thông Giáo, cuối cùng, lúc mất là
một câu Phật hiệu, nhất tâm chuyên cầu Tịnh
Độ.
Tôi theo thầy
Lư mười năm, nói thật ra, thầy cũng là Tông, Giáo,
Hiển, Mật đều thử qua, cụ dạy tôi chớ
nên lăng phí thời gian, mà hăy thâm nhập một môn, chuyên tu Tịnh
Độ, thời gian [đă tốn để học các tông,
các pháp khác] đúng là lăng phí. Quư vị thấy: Đến
cuối cùng, hữu dụng vẫn là một câu Phật hiệu,
giúp cụ văng sanh. Do vậy biết: Người thật sự
văng sanh với phẩm vị cao là ai? Ông già bà cả ở làng
quê, chuyện ǵ cũng đều chẳng biết, thứ
ǵ cũng chưa từng học, cứ một câu A Di
Đà Phật niệm suốt ngày từ sáng đến tối.
Lúc ra đi, đứng mất, ngồi mất, biết trước
lúc mất, chẳng ngă bệnh, thật tuyệt vời! V́
thế, thầy Lư thường nói: “Học theo kẻ ngu, tự ḿnh muốn học theo kẻ
ngu, mà mấy chục năm học chẳng giống!”
Ngu nhưng không ai sánh bằng, cổ nhân nói câu ấy hết
sức có lư! Thông minh, tự cho ḿnh là thông minh, chẳng bằng
bà cụ già ở nông thôn, suốt đời nhất tâm, một
môn, phẩm vị văng sanh cao. Quư vị thấy người
đồ đệ làm nghề vá nồi, chuyện này rất
nhiều người biết, pháp sư Đế Nhàn đă
nói về tŕnh độ và thành tựu của người thợ
vá nồi như sau: “Những vị
phương trượng trụ tŕ các đại đạo
tràng tại các danh sơn đương thời đều
chẳng bằng ông, đại pháp sư giảng kinh, giáo
học cũng chẳng bằng ông”. Quư vị thấy ông
ta chẳng sanh bệnh, biết trước lúc mất, đứng
mất. Sau khi đă chết, vẫn đứng sừng sững
ba ngày, chờ thầy đến lo liệu hậu sự.
Người đă chết vẫn đứng ba ngày, có vị
pháp sư giảng kinh, hay phương trượng trụ
tŕ nào có thể sánh bằng ông ta? Ông ta niệm một câu A Di
Đà Phật ba năm, thời gian cũng chẳng dài, nêu
gương tốt đẹp!
Khoảng
bốn mươi năm trước, lúc Phật Quang Sơn
vừa mới khai sơn, lập một Phật Học Viện,
pháp sư Tinh Vân t́m tôi, tôi dạy mười tháng ở đó,
đảm nhiệm chức chủ nhiệm giáo vụ. Có một
ngày, có một người thợ làm công dài hạn [cho nhà
chùa] bảo tôi: Ở quê ông ta thuộc vùng nông thôn Đài
Nam, hàng xóm có một bà cụ già, chuyện ǵ cũng chẳng
biết, con dâu của cụ hiểu Phật pháp đôi chút.
Bà cụ lạy thần, lễ Phật, ǵ cũng lạy
tuốt! Cưới cô con dâu ấy về, nàng dâu khuyên mẹ chồng đừng
đi khắp nơi lạy lục lung tung, hăy lập Phật
đường trong nhà, chuyên niệm A Di Đà Phật. Mẹ
chồng rất nghe lời nàng dâu, thật sự làm, niệm
ba năm, đứng văng sanh. Người công nhân ấy kể
cho tôi biết, đó là chuyện thật, chẳng giả
tí nào, chính mắt ông ta thấy, niệm Phật ba năm
đấy nhé! Những người ấy văng sanh phẩm
vị tuyệt đối chẳng phải là hạ bối
văng sanh. Văng sanh với thành tựu giống như vậy, phẩm
vị chắc chắn là thượng bối, chẳng phải
là trung hạ. Ra đi tiêu sái, tự tại dường ấy,
những người ấy thị hiện cho chúng ta thấy.
Chuyện
gần nhất là mấy năm trước, phải là bốn
hay năm năm trước, ông Hoàng Trung Xương ở
Thâm Quyến, là một người trẻ tuổi, ba mươi
mấy tuổi, phát nguyện thí nghiệm: “Tôi bế quan niệm
Phật ba năm thử coi có được hay không?” Mỗi
ngày một bộ kinh Vô Lượng Thọ, bản hội
tập, thời gian c̣n lại đều là niệm A Di
Đà Phật. Chiếu theo phương pháp lăo ḥa thượng
Đế Nhàn đă dạy người thợ vá nồi,
niệm mệt bèn nghỉ ngơi, chẳng phân biệt ngày
hay đêm, niệm mệt bèn nghỉ ngơi, nghỉ khỏe
rồi lại niệm tiếp. Ông ta phát tâm niệm ba
năm, niệm tới hai năm mười tháng, c̣n thiếu
hai tháng nữa mới viên măn, đă ra đi. Biết trước
lúc mất, niệm hai năm mười tháng bèn thành công,
văng sanh. Ông này được bà Hướng Tiểu Lỵ
hộ tŕ. Hướng Tiểu Lỵ đă thật sự bảo
vệ, đưa một người về thế giới
Cực Lạc, công đức ấy chẳng thể nghĩ
bàn! Đại Từ Bồ Tát dạy chúng ta: Quư vị có
thể d́u dắt hai người văng sanh, công đức ấy
vượt trỗi chính ḿnh niệm Phật. V́ sao quư vị
có thể văng sanh? Đến lúc lâm chung, họ sẽ theo A Di
Đà Phật cùng đến tiếp dẫn quư vị. Điều
này cho thấy công đức đưa người khác đi
văng sanh chẳng thể nghĩ bàn. V́ thế, phải giảng
rơ ràng chữ Phật này, phải giảng minh bạch, thật
sự có chuyện ấy, chắc chắn chẳng phải
là mê tín.
Đối
với bổn ư của chữ Phật, chúng ta hăy xem đoạn
sau đây: “Phật giả, Phạn
ngữ vi Phật Đà” (Phật là Buddha trong tiếng Phạn),
trong rất nhiều kinh điển, phía sau c̣n có một chữ
nữa, tức là Phật Đà Da (Buddhaya), đó là tiếng
Phạn. “Kim chỉ ngôn Phật,
năi tỉnh văn dă” (nay chỉ nói là Phật là lược
bớt vậy). Người Hoa chuộng đơn giản,
chẳng thích rườm rà, lược bớt âm cuối, đối
với chữ Phật Đà Da, chỉ chừa lại một
chữ Phật, hai chữ ở phía sau đều lược
bớt, tỉnh lược. “Dịch
vi Hoa ngôn, tắc vi Giác Giả. Tự giác, giác tha, giác hạnh
viên măn” (dịch sang tiếng Hán là Giác Giả, tự giác,
giác tha, giác hạnh viên măn). Chữ này nghĩa là ǵ? Nghĩa
là giác ngộ. Giác Giả là người giác ngộ, giác ngộ
là ǵ? Một là tự giác, tức là chính ḿnh giác ngộ. Thứ
hai là giác tha, tức giúp cho người khác giác ngộ. Thứ
ba là tự giác và giác tha đều đạt tới viên
măn. Viên măn là ǵ? Minh tâm kiến tánh là viên măn, nói theo kiểu
này. Nếu giác măn là hết thảy chúng sanh đều giác
ngộ, vậy th́ rất nhiều chúng sanh vẫn chẳng
giác ngộ, làm sao quư vị có thể thành Phật cho được?
V́ thế, Giác Tha chẳng có ư nghĩa này! Giác Tha là ǵ? Giác Tha
giúp đỡ tự giác. Người Trung Quốc nói: “Giáo học tương trưởng”
(dạy và học giúp nhau cùng tiến bộ), thật sự
giáo học là giác ngộ. Có rất nhiều thứ chính ḿnh
không biết, nhưng trong khi dạy học, khi cùng các bạn
học hỏi đáp, trí huệ sẽ dấy lên, liền
hiểu rơ; v́ thế, “giáo học
tương trưởng”. Trong giáo học cũng có thể
đắc tam-muội, cũng có thể hoát nhiên đại
ngộ. V́ thế, viên măn là “minh tâm kiến tánh bèn viên măn”; chưa
đạt đến minh tâm kiến tánh, vẫn là Bồ
Tát. Minh tâm kiến tánh bèn thành Phật.
“Tự giác dị ư phàm phu chi
bất giác” (tự giác: Khác với phàm phu bất giác), tự
giác thuộc giai đoạn nào? A La Hán. A La Hán thật sự
tự giác, cũng có thể nói là buông xuống chấp
trước đối với hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian, tự giác rồi. Quư vị chẳng
buông xuống, dẫu học nhiều đến đâu, giảng
nhiều đến đâu, trước tác suốt một đời,
vẫn là bất giác, chẳng thoát ly sanh tử luân hồi.
Người tự giác xuất ly lục đạo, thật
sự tự giác. Phàm phu, tức là lục đạo phàm
phu, dẫu sanh lên trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng,
tức là tầng cao nhất trong hai mươi tám tầng
trời, vẫn không thoát khỏi lục đạo, chẳng
thể coi là giác ngộ được! “Phàm phu” là chúng sanh trong lục đạo. “Giác tha dị ư Nhị Thừa
chi độc giác” (giác tha là khác với Nhị Thừa
chỉ giác ngộ riêng ḿnh), đấy là Bồ Tát. Nhị
Thừa là Thanh Văn và Duyên Giác, cũng là A La Hán và Bích Chi
Phật, tâm lượng của họ chẳng lớn, chỉ
cầu tự giác. Họ cũng giác tha, nhưng chẳng chủ
động dạy người khác. Có ai theo họ học
tập, họ thích kẻ ấy bèn dạy bảo; nếu
chẳng ưa thích bèn chẳng đoái hoài, đó là nói về
duyên phận, chẳng giống như Bồ Tát. Đối
với hết thảy chúng sanh, Bồ Tát b́nh đẳng dạy
bảo, làm bạn chẳng thỉnh của chúng sanh, chúng
sanh chẳng t́m Ngài, Ngài chủ động t́m đến để
dạy quư vị, chủ động mà! Thích giúp đỡ người
khác, đấy là Bồ Tát. “Giác
măn dị ư Bồ Tát chi tại nhân” (giác măn, khác với
Bồ Tát đang tu nhân), “măn”
là minh tâm kiến tánh, viên măn. Người ấy có thể buông
khởi tâm động niệm xuống. Khởi tâm động
niệm gọi là vọng tưởng; chẳng khởi tâm,
không động niệm, buông vọng tưởng xuống,
trở về nương vào tự tánh, bèn minh tâm kiến
tánh, đấy là thành Phật, cho nên gọi là viên măn. Bồ
Tát th́ sao? Bồ Tát c̣n đang tu học, vẫn chưa đạt
đến viên măn. V́ thế, Bồ Tát chỉ là buông phân biệt,
chấp trước xuống, nhưng khởi tâm động
niệm chưa buông xuống. Buông khởi tâm động niệm
xuống bèn thành Phật.
“Tam giác câu viên, chúng thánh trung tôn, cố
xưng vi Phật” (ba thứ giác đều viên măn, là bậc
cao quư nhất trong các vị thánh, nên gọi là Phật). Sở
dĩ Phật là người giác ngộ viên măn, Giác Giả
là bậc giác ngộ viên măn, mang ư nghĩa này. V́ thế, Phật
chẳng phải là thần, mà cũng chẳng phải là tiên,
mà là người, người nào vậy? Là chính ḿnh. Bản
thân chúng ta đối với hết thảy các pháp thế
gian và xuất thế gian chẳng c̣n chấp trước nữa,
biết “hễ có h́nh tướng
đều là hư vọng”, thật sự có thể buông
xuống, quư vị là tự giác. Người Ấn Độ
gọi bậc tự giác là A La Hán, A La Hán tự giác. Buông phân
biệt xuống, không chỉ chẳng chấp trước,
mà đối với hết thảy các pháp ngay cả tâm phân
biệt đều không có, người ấy là Bồ Tát.
Không chỉ chẳng phân biệt, ngay cả khởi tâm
động niệm cũng không có, tâm địa thật sự
trở về thanh tịnh, b́nh đẳng, giác, người
ấy thành Phật. V́ thế, Phật là chính ḿnh, chẳng
phải là ai khác. Phật, Bồ Tát, A La Hán là ba danh xưng học
vị trong Phật giáo, mỗi cá nhân đều có thể đạt
được những học vị ấy. Nếu quư vị
thật sự hạ tâm quyết định, trong một đời
này, phân biệt, chấp trước thảy đều buông
xuống, quư vị bèn thành Phật. Chẳng phải là ai khác,
chẳng liên quan đến người khác. Người
khác thành Phật, liên quan ǵ đến ta? Thích Ca Mâu Ni Phật
giáo học nhằm mong mỏi chính chúng ta sẽ thành Phật,
không phải là đi lạy vị Phật nào khác! Lạy vị
Phật khác, Ngài sẽ lắc đầu, quư vị đến
t́m ta để làm ǵ? Sai lầm rồi! Sau khi quư vị hiểu
rơ, chính ḿnh phải đổ công, chính ḿnh thật sự buông
xuống, chuyện này chẳng dính dáng ǵ đến học
hay chẳng học, buông xuống là được! Học
mà chẳng thể buông xuống, sẽ biến thành một
nhà Phật học. Thuở xưa không có những học giả
trong Phật môn như hiện thời, chẳng có danh xưng
ấy. Cổ nhân đều là thật tu, quư vị có thể
buông xuống bao nhiêu, linh tánh sẽ được nâng cao lên
bấy nhiêu. Quư vị chẳng thể buông xuống, tập
khí phiền năo sẽ khiến quư vị đọa lạc
thấp hơn. Quư vị có thể buông xuống, sẽ được
nâng cao lên, đạo lư là như vậy. V́ thế, ba thứ
giác, tự giác, giác tha viên măn. Do đă viên măn nên là “chúng thánh trung tôn” (bậc tôn
quư trong các thánh). “Chúng thánh”:
Từ Tu Đà Hoàn trở lên là thánh nhân. Từ Tu Đà Hoàn đến
A La Hán có tám đẳng cấp. Bồ Tát từ địa
vị Sơ Tín tới Phật là năm mươi hai đẳng
cấp, đều gọi là thánh nhân. Trong nhiều vị
thánh nhân như thế, Ngài có địa vị tối cao, được
gọi là Phật, chúng thánh trung tôn.
“Hựu vân trí giả, trí tức
giác chi nghĩa” (Lại gọi là bậc Trí, Trí có nghĩa
là giác), đây là trí huệ, Phật có trí huệ. “Trí vô bất tri, sở vị đắc
Nhất Thiết Chủng Trí, tức giác măn chi nghĩa”
(Trí không ǵ chẳng biết, nói “đắc Nhất Thiết
Chủng Trí”, nghĩa là giác măn). A La Hán chứng đắc Nhất
Thiết Trí, Bồ Tát chứng đắc Đạo Chủng
Trí, Phật chứng đắc Nhất Thiết Chủng
Trí, đấy là trí huệ đạt tới rốt ráo viên
măn, không ǵ chẳng biết. Bồ Tát c̣n có điều chẳng
biết, A La Hán cũng thế, c̣n Phật th́ không ǵ chẳng
biết. Phật là ai? Chính ḿnh. Chính ḿnh thật sự buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống, quư
vị bèn khế nhập cảnh giới này. “Tại bổn kinh trung, thử xứ
Phật tự, tức chỉ đại ân từ phụ, Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật” (trong kinh này, chữ Phật ở
đây chỉ đấng đại ân từ phụ Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni Phật). Trong kinh này, Phật ở chỗ
này là ai? Người giảng bộ kinh này là Thích Ca Mâu Ni Phật,
chẳng phải ai khác. Đặc biệt chỉ ra trong bộ
kinh này, Thích Ca Mâu Ni Phật tượng trưng ư nghĩa ǵ.
Ngày hôm nay đă hết thời gian rồi, học tới đây,
ngày mai tôi sẽ giới thiệu Thích Ca Mâu Ni Phật với
quư vị.
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
Phần 42 hết
[1] Lượng tử lực học
(Quantum mechanism) có thể coi như bắt nguồn từ sự
phát hiện ra tia bức xạ từ âm cực (cathode ray) của
Michael Faraday vào năm 1838 và sự phát hiện bức xạ
của thể đen (black body radiation) vào năm 1859 bởi
Gustav Kirchoff, nhưng cơ sở lư thuyết
chỉ h́nh thành cụ thể và thu hút sự chú ư mạnh mẽ
của giới khoa học kể từ khi Max Planck
đưa ra thuyết lượng tử vào đầu thế
kỷ 20 và Albert Einstein đă vận dụng giả thiết
của Max Planck để giải thích hiện tượng
quang điện. Lư thuyết Lượng Tử tiếp tục
được hoàn thiện bởi Niels Bohr, W. Heisenberg, Max
Born, John Von Neuman, Paul Dirac....
[2] Tăng Tử (505-435 trước Công
Nguyên) tên thật là Tăng Sâm, tự là Tử Dư, người
xứ Nam Vũ, nước Lỗ, có mỹ hiệu là Tông
Thánh. Ông nổi tiếng với câu nói “ta mỗi ngày ba lượt phản tỉnh”.
Tương truyền ông là tác giả các sách Đại Học
và Hiếu Kinh của Nho Gia. Ông cũng được xếp
vào hai mươi bốn tấm gương hiếu hạnh
(Nhị Thập Tứ Hiếu) và có lăng mộ, miếu
thờ riêng tại huyện Gia Tường, thành phố Tế
Ninh, tỉnh Sơn Đông.
Hữu Tử là môn đệ của Khổng
Tử, tên là Hữu Nhược, tự là Tử Hữu,
người huyện Ph́ Thành, tỉnh Sơn Đông,
được xếp vào hàng Thất Thập Nhị Hiền,
chủ trương “lễ vi dụng,
ḥa vi quư”. Do có h́nh dáng rất giống Khổng Tử,
nên sau khi Khổng Tử mất, ông được các bạn
đồng học kính trọng. Ông là người chuộng
cổ, thông hiểu lễ nhạc, đề xướng
tôn trọng lễ giáo.
[3] Thôi Bối Đồ là một trong bảy
tác phẩm tiên tri nổi tiếng nhất. Về bảy tác phẩm dự ngôn nổi
tiếng, có thuyết bảo đó là Càn Khôn Vạn Niên Ca của
Khương Tử Nha, Mă Tiền Khóa của Khổng Minh,
Tàng Đầu Thi của Lư Thuần Phong, Mai Hoa Thi của
Thiệu Khang Tiết, Thiêu Bính Ca của Lưu Bá Ôn, Hoàng Thi,
và Kim Lăng Tháp Bi Văn của Lưu Bá Ôn (trong thuyết
này, Thôi Bối Đồ không được nhắc tới).
Thuyết thứ hai nói bảy tác phẩm ấy là Mă
Tiền Khóa, Thôi Bối Đồ, Thiêu Bính Ca, Càn Khôn Vạn
Niên Ca, Tàng Đầu Thi và Mai Hoa Thi. Thuyết thứ ba gần
giống thuyết thứ hai, nhưng thay Mai Hoa Thi bằng
Hoàng Bá Thiền Sư Thi. Theo các nhà nghiên cứu, Thôi Bố
Đồ xuất hiện vào khoảng thời gian 626-649,
không rơ do ai trước tác. Dân gian thường cho rằng
tác phẩm này do Lư Thuần Phong và Viên Thiên Cương biên
soạn. Theo đó, Lư Thuần Phong vận dụng Châu Dịch
để tiên đoán lịch sử Trung Quốc từ thời
Đường đến hai ngàn năm sau, cho đến
khi Viên Thiên Cương đẩy vào lưng, bảo hăy
ngưng lại (nên gọi là Thôi Bối Đồ). Lời
dự ngôn gồm năm mươi tám đoạn. Bản
Thôi Bối Đồ lưu hành hiện thời có lời
giải thích của Kim Thánh Thán. Mỗi một lời dự
đoán bao gồm ba phần Sấm (lời dự đoán
chính), Tụng là một bài thơ ngắn nói rộng thêm lời
Sấm, Đồ là h́nh vẽ và phần Quái Tượng
chỉ rơ lời Sấm ứng với quẻ nào trong Châu Dịch.
Chẳng hạn, lời đoán thứ hai như sau: “Lũy lũy thạc quả, mạc
minh kỳ số, nhất quả nhất nhân, tức tân tức
cố. Tụng viết: Vạn vật thổ trung sanh, nhị
cửu tiên thành thật, nhất thống định Trung
Nguyên, âm thịnh dương tiên kiệt” (quả to
đầy ăm ắp, chẳng biết số bao nhiêu, cứ
một quả, một nhân, vừa mới lại vừa
cũ. Tụng rằng: Vạn vật sanh từ đất,
hai chín thành trái trước, thống nhất, Trung Nguyên yên,
âm thịnh, dương cạn trước), Kim Thánh Thán giảng:
“[Đồ h́nh vẽ] một
đĩa đầy ắp quả mận, gồm hai mốt
trái, tức là từ Đường Cao Tổ đến
Chiêu Tuyên Đế (Đường Ai Đế Lư Chúc) là
hai mươi mốt đời vua. ‘Nhị cửu’ có
nghĩa là vận của nhà Đường là hai trăm
tám mươi chín năm. ‘Âm thịnh’ chỉ Vơ Tắc Thiên
nắm quyền, dâm dật, hôn mê, rối loạn triều
chánh, khiến nhà Đường nghiêng ngả. Sau đấy,
đến thời thịnh trị Khai Nguyên (Đường
Huyền Tông), tuy đẹp đẽ sánh ngang thời Trinh
Quán (Đường Thái Tông), nhưng rồi Dương
Quư Phi chuốc họa, tông thất phải bôn tẩu...”
[4] Thiêu Bính Ca là tác phẩm dự ngôn
lưu truyền trong dân gian, tương truyền do quân
sư của Minh Thái Tổ là Lưu Bá Ôn nói ra. Theo đó,
Minh Thái Tổ (Châu Nguyên Chương) đang ăn thiêu bính
(một loại bánh ngọt) th́ có Lưu Cơ (Lưu Bá Ôn)
cầu kiến, Thái Tổ lấy chén úp lên bánh rồi thách
Lưu Bá Ôn đoán dưới chén là ǵ, Lưu Bá Ôn trả lời
đúng, nhân đó, hai người bàn về vận số của
nhà Minh. Những lời dự đoán ấy được
gọi là Thiêu Bính Ca. Thiêu Bính Ca lời lẽ bí hiểm,
được rất nhiều người giải thích rất
chi tiết, nhưng cũng chỉ là phỏng đoán dựa
trên những sự kiện lịch sự đă xảy ra,
gần giống như cách giải thích sấm Trạng
Tŕnh tại Việt Nam.
[5] “Thị xích” (市尺) là đơn vị đo lường
được áp dụng tại Đài Loan và Hương Cảng.
Chữ “thị xích” hàm ư
thước được dùng trong thị trường nhằm
phân biệt với Công Xích (mét) và Anh Xích (foot). Một thị
xích bằng 1/3 mét, tức 33,33 cm. Một thị xích gồm
mười thốn (tấc), như vậy một thước
đời Châu bằng sáu thốn của thị xích, tức
là chừng 18 cm.